Trong vai trò của người thầy lời của ảnh chỉ là gì

Trong vai trò của người thầy lời của ảnh chỉ là gì
Bác Hồ nói chuyện với cán bộ và sinh viên đại học Bách khoa tại nhà ở sinh viên sáng mùng Một Tết Mậu Tuất (1958). Ảnh internet

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của thế giới, người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới của Việt Nam. Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, từ triết lý giáo dục phương Đông và chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục và sự đóng góp của Người cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước nhà đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”[1].

1. Mục tiêu cao cả đồng thời cũng là khát vọng tột bậc của Hồ Chí Minh là nguyện suốt đời phấn đấu là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào quần chúng; không chỉ huấn luyện và tổ chức quần chúng trong cuộc đấu tranh giành tự do độc lập, giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, của hệ tư tưởng lạc hậu, mà còn  tạo mọi điều kiện để mỗi người dân Việt Nam được học tập, nâng cao vai trò làm chủ vận mệnh và tương lai của mình.

Từ những ngày còn hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm đến vấn đề giáo dục - đào tạo của nước nhà. Trong từng điều kiện cụ thể, Người đã luôn chăm lo việc nâng cao dân trí, giáo dục cho Việt kiều lao động, đoàn kết và thức tỉnh tinh thần yêu nước của họ. Trực tiếp bồi dưỡng các thanh niên Việt Nam yêu nước, khi là đồng chí Vương ở Quảng Châu (1926) – người thầy đào tạo nên thế hệ thanh niên cách mạng lớp Lý Tự Trọng, hay khi là Thầu Chín (1928) – ông giáo làng của bao gia đình Việt kiều tha phương trên đất Thái Lan, ở đâu Hồ Chí Minh cũng ôm ấp và thực hiện hoài bão nâng cao dân trí, một hoài bão đã sớm hình thành khi Người còn là thầy giáo trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành của Trường Dục Thanh hồi đầu thế kỷ XX. Năm 1941, khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước, khi sáng lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân tiến hành cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, trong Mười chính sách của Mặt trận, Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã chú trọng việc xây dựng nền quốc dân giáo dục: chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Vừa phát triển phong trào cách mạng, Người vừa tham gia sự nghiệp giáo dục - đào tạo bằng việc thành lập những lớp học cho cán bộ cách mạng và đồng bào dân tộc ở núi rừng Pác Bó, tham gia biên soạn tài liệu dạy học và trực tiếp dạy chữ cho họ. Trong mỗi bài giảng của mình, Người không chỉ “dạy chữ”- dạy họ biết đọc, biết viết, mà còn luôn tuyên truyền về đoàn kết, về việc rèn luyện đạo đức cách mạng, động viên đồng bào phải gắng học tập để hiểu được lý luận cách mạng; đồng thời căn dặn họ khi đi vận động cách mạng, phải biết dạy lại những gì mình đã học được, giúp họ thoát khỏi đời sống tinh thần tối tăm, lạc hậu. Từ buổi đầu ấy, bà con đồng bào các dân tộc thiểu số đã được học chữ và học cả đạo đức của người cách mạng, gắn những điều đã học vào thực tiễn hoạt động và đấu tranh cách mạng, nhằm góp sức vào sự nghiệp giải phóng. Chứng kiến cảnh đồng bào ở khu căn cứ cách mạng còn đói nghèo mà vẫn một lòng theo Đảng, Hồ Chí Minh thiết tha căn dặn: Ta còn nghèo, chưa thể có tiền giúp đỡ nhân dân, nhưng nhân dân đã có những yêu cầu và nguyện vọng mà đoàn thể có thể giúp được. Đó chính là việc dạy đồng bào học chữ, dạy họ hiểu con đường cách mạng phải đi như thế nào, phải kiên tâm với cách mạng ra sao... ở buổi ban đầu ấy. Bởi vậy, Người kiên trì thực hiện chủ trương phong trào Việt Minh lan tới đâu, cần tổ chức học văn hoá tới đó với tinh thần người biết dạy người không biết, người biết nhiều dạy người biết ít, để mỗi người dân Việt Nam sớm thoát khỏi cảnh mù chữ, vì “mù chữ thì đứng ngoài chính trị”. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, với vị thế một nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn đến vấn đề giáo dục - đào tạo. Đối với Người, chăm lo cho giáo dục -đào tạo, chăm lo cho việc “dạy chữ” và “dạy người” cho mọi người Việt Nam và việc tổ chức hoạt động vì sự nghiệp trồng người của Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, thể hiện quyền dân chủ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, giữa lúc kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân ra sức thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ vô cùng trọng đại và cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Coi dốt là một kẻ địch, Người chỉ rõ: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”[2]. Chiến dịch chống nạn mù chữ chính thức dược phát động từ ngày 8/9/1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra các sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối; Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền. Để phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, Nha Bình dân học vụ được thành lập ngày 18/9/1945. Khoá huấn luyện cán bộ bình dân học vụ đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Ngày 4/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lời kêu gọi “Chống nạn thất học” gửi tới toàn thể quốc dân đồng bào, trong đó nhấn mạnh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết”[3]. Trên cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh phát động phong trào thi đua rộng khắp để khuyến khích quần chúng tham gia đi học bình dân học vụ, với những khẩu hiệu: Đi học bình dân học vụ là yêu nước; Đi dạy bình dân học vụ là yêu nước; Giúp đỡ bình dân học vụ là yêu nước; Mỗi gia đình là một lớp bình dân học vụ; Mỗi trại ấp là một lớp bình dân học vụ; Mỗi nhà máy là một lớp bình dân học vụ; Mỗi công, tư sở là một lớp bình dân học vụ... Tuy bận công việc, nhưng Người vẫn dành thời gian để đến thăm các lớp học bình dân học vụ, bổ túc văn hoá và các lớp chính trị, nghiệp vụ; vẫn dành thời gian để theo dõi phong trào và nhiều lần gửi thư động viên đồng bào cả nước thi đua dạy và học của quốc dân. Được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, phong trào Bình dân học vụ ngày càng phát triển và đạt được những kết quả vô cùng to lớn: Từ 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ năm 1946 tới năm 1948 là 6 triệu người và đến năm 1952 là 10 triệu người, chiến dịch xoá nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành. Trong những năm kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, Hồ Chí Minh kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc. Tất cả mục tiêu, phương châm, nội dung của giáo dục - đào tạo đều tập trung phục vụ kháng chiến và kiến quốc: “Để hoàn thành nhiệm vụ ấy, ngoài việc quân sự ắt phải phát triển kinh tế. Cho nên cần có những người chuyên môn thông thạo về công nghệ và nông nghiệp... Cần đào tạo cán bộ cho mọi ngành hoạt động, cho nên cần có thầy giáo”[4]. Nội dung giáo dục trong nhà trường tập trung đào tạo nên những người có tri thức khoa học, có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức để hoàn thành sự nghiệp cách giải phóng Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, bước sang giai đoạn vừa kháng chiến ở miền Nam, vừa tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích của sự nghiệp giáo dục - đào tạo gắn liền với tình hình mới, với yêu cầu cần có nhiều hơn nữa những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học... Vì thế, giáo dục - đào tạo không chỉ bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà phải có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ... Đúng như Hồ Chí Minh đã viết: “Văn hoá giáo dục phải phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[5].

2. Mục đích giáo dục- đào tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc dạy tri thức nâng cao trình độ học vấn, mà hơn thế nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những con người xây dựng chủ nghĩa xã hội có đức và có tài. Theo Người, muốn xây dựng và hoàn thiện con người toàn diện, thì nội dung của ngành giáo dục và đào tạo phải chú trọng cả “dạy chữ” và “dạy người”. Mục đích, nội dung học tập trong xã hội mới, ngoài yêu cầu trang bị tri thức về văn hóa, khoa học, xã hội… còn phải nhấn mạnh việc rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng lòng  yêu Tổ quốc, yêu nhân dân; yêu và trọng lao động; giữ gìn kỷ luật, bảo vệ của công…Nghĩa là trong nội dung giáo dục – đào tạo "phải chú trọng đủ các mặt; đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất"[6]. Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến thức văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức khoa học, công nghệ.

Để có thể tạo dựng một đội ngũ kế cận, rường cột của nước nhà, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của từng cấp giáo dục - đào tạo như sau: Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ của các cháu… Quán triệt phương pháp giáo dục phải luôn gắn liền lý luận và thực tế, Hồ Chí Minh yêu cầu chương trình giáo dục trong nhà trường phải gắn liền với điều kiện cụ thể của đất nước: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và của Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế”[7]. Song Người cũng nhắc nhở: “Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm, nhưng làm vội không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai rồi thứ ba mới là bước thứ ba. Vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch, có từng bước”[8]. Theo đó, phương pháp giáo dục được sử dụng trong giảng dạy phải bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tùy theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt". Trong giáo dục- đào tạo, Hồ Chí Minh chú trọng môi trường dân chủ, thẳng thắn và sự đối thoại giữa thầy cô giáo và học sinh, góp phần tăng cường năng lực tư duy, sáng tạo của người học. Theo Người, giáo dục - đào tạo cần thực hiện 7 điều phải, đó là: 1- Phải yêu Tổ quốc yêu nhân dân; 2- Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn; 3- Phải yêu và trọng lao động; 4- Phải giữ gìn kỷ luật; 5- Phải bảo vệ của công; 6- Phải quan tâm đến đời sống của nhân dân; 7- Phải chủ ý đến tình hình thế giới; và 6 điều chống là: 1- Chống tâm lý tự ti tư lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình; 2-Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc; 3- Chống thói xem khinh lao động; 4- Chống lười biếng, xa xỉ; 5- Chống sinh hoạt uỷ mị; 6- Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang[9]. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, nhất là giáo dục thanh niên phải gắn với dư luận xã hội, phải liên hệ chặt chẽ với các cuộc đấu tranh xã hội, cần phải giáo dục tính trung thành, thật thà, chính trực… Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người cho rằng học phải đi đôi với hành, khi học tập cần phải đặt ra câu hỏi: “Học để làm gì? Học để phục vụ cho ai? Đây là hai câu hỏi cần được trả lời dứt khoát thì mới có phương hướng để sửa chữa khuyết điểm của mình”. Theo quan điểm của Người, giáo dục trong nhà trường cần có dân chủ, “đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận… Điều gì chưa thông suốt thì bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải cá đối bằng đầu”[10]. Trong hoàn cảnh nào, thì người thầy cũng phải xứng đáng với vị trí của mình, vừa là người hướng dẫn, truyền tải tri thức, vừa là tấm gương sáng về nhân cách đạo đức cho học sinh noi theo. Tuy nhiên, giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Bởi vì, giáo dục nhà trường dù tốt mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn. Điều này thật thấm thía. Bởi vì, giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội, nên chỉ có kết hợp chặt chẽ các yếu tố này mới tạo thành sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp “trồng người”- bao gồm cả “dạy chữ “và “dạy người” đi đến thắng lợi.

3. Suốt mấy thập niên qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở nước ta. Bên cạnh việc phát triển mạnh mẽ về số lượng, giáo dục - đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có cuộc cách mạng thật sự khoa học và triệt để về giáo dục - đào tạo, thực hiện việc tái cấu trúc nền giáo dục - đào tạo một cách khoa học, nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà, nâng cao chất lượng và tầm vóc đích thực của giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HÐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trên tinh thần đó, từ Ðại hội lần thứ VI (1986) đến Ðại hội lần thứ XI (2011) của Ðảng, cũng như trong các văn kiện quan trọng của Ðảng và Nhà nước, giáo dục - đào tạo luôn được khẳng định là "quốc sách hàng đầu", là "động lực của sự phát triển đất nước". Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”[11]. Tiếp tục mục tiêu đổi mới, căn bản toàn diện giáo dục - đào tạo của nước nhà, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo- Nghị quyết số 29-NQ/TW nêu rõ 7 quan điểm chỉ đạo, trong đó thực hiện “phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” chính là làm theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh lúc sinh thời. Trước những đòi hỏi của thực tiễn và theo đúng quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 29, hơn bao giờ hết, trong việc đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay, vai trò của người thầy càng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong việc chú trọng dạy học theo phương pháp phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học... Rất nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang và cao quý như Hồ Chí Minh đã nói, người thầy cần phải tạo dựng cho mình những phẩm chất và năng lực cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Theo lời Người, mỗi học sinh tốt hay xấu có ảnh hưởng không nhỏ từ người thầy, cho nên người thầy phải làm gương và đi đầu trong mọi lĩnh vực. Để hoàn thành trọng trách cao quý của mình, người thầy phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức, có ý chí vượt khó và tâm huyết với sự nghiệp trồng người; phải có phương pháp làm việc khoa học, thường xuyên trau dồi nghiệp vụ, nghiên cứu chuyên môn; phải luôn thực hành “học không biết chán, dạy không biết mỏi”; phải “luôn học tập suốt đời” để trở thành “người hướng dẫn” không thoái bộ, lạc hậu… Để nâng cao vai trò của người thầy - “người hướng dẫn” trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, phải quán triệt nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm và dạy những gì học sinh cần chứ không phải dạy những gì thầy giáo biết và nhồi nhét kiến thức theo sách giáo khoa, tạo áp lực học thêm,v.v.. Bản thân mỗi người thầy phải luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của mình, phải học hỏi, cập nhật những kiến thức mới liên tục, thay đổi lối mòn tư duy. Người thầy phải luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng để mỗi bài giảng tránh khô cứng mà trở nên sinh động, hấp dẫn, gợi mở vấn đề, khuyến khích tư duy nghiên cứu khoa học của học sinh. Phương pháp giảng dạy của người thầy cũng là một yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của mỗi giờ dạy. Không thể dạy cho các em tất cả những kiến thức mà người thầy có, mà cần dạy cho học sinh cách kiếm tìm kiến thức, giúp các em tự học, vì thế, người thầy cần phải thường xuyên cập nhật thông tin, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy trên tinh thần năng động, sáng tạo. Người thầy phải tùy thuộc vào vấn đề cần truyền tải mà linh hoạt, tiếp cận tốt hơn với phương pháp giảng dạy tích cực, từ đó, khuyến khích học sinh thể hiện ý tưởng, trình bày những gì mình muốn nói, kể cả ý kiến trái chiều với thầy. Điểm mấu chốt nhất là người thầy phải đổi mới phương pháp dạy học -  phải tự mình thay đổi quan niệm, suy nghĩ của chính mình về phương pháp dạy học, về bản chất của việc dạy và việc học, để nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn trước yêu cầu của thực tiễn./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

-----------------------   [1] Nghị quyết 24C/18.65 phiên họp Đại hội đồng lần thứ 24 (20/10 - 20/11/1987) của UNESCO về việc tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. [2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr.7. [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.40. [4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.7, tr.71. [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647. [6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647. [7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647. [8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.10, tr.345. [9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.9, tr.264-265. [10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.9, tr.266.

[11] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 130 - 131.

Theo Tuyengiao.vn