Vì sao trong đoạn thơ thứ hai của bài sao không về vàng ơi ! bạn nhỏ lại cảm thấy cái cổng rộng?

Văn Cao (tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 mất ngày 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ,[3][4][5] nhà thơ ,[6][7][8][9] chiến sĩ biệt động ái quốc[1][10][11][12] người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc Tiến quân ca, quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đồng thời ông cũng là một trong những nhạc sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.

Văn Cao
Vì sao trong đoạn thơ thứ hai của bài sao không về vàng ơi ! bạn nhỏ lại cảm thấy cái cổng rộng?
Bìa bản nhạc Bến Xuân do nhà Tinh Hoa tái bản lần thứ ba, năm 1954

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn tất[30]. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2[31].

Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa và Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam[32].

Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi[32]. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao[32]. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thưởng không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.

Tác phẩm Mùa xuân đầu tiênSửa đổi

Nhạc cách mạngSửa đổi

Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam...

Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy, Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam[33].

Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừ Tiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa mặc dù chưa được phép của tác giả.

Khí nhạcSửa đổi

Thơ caSửa đổi

Thơ tiền chiếnSửa đổi

Thơ kháng chiến (19461956)Sửa đổi

Sau biến cố Nhân Văn - Giai PhẩmSửa đổi

Hội họaSửa đổi

Cùng với Thái Bá Vân, Tạ Tỵ là một trong số ít những người bạn thân quen có hiểu biết sâu về tài năng hội họa của Văn Cao. Trong hồi ký của ông, Tạ Tỵ nhắc lại quãng thời gian đầu khi Văn Cao đến với hội họa: "Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó."[34]

Một điều không may mắn là do nhiều lý do (như trách nhiệm của những người lưu giữ và điều kiện bảo quản hạn chế trong nhiều năm chiến tranh ở Việt Nam) mà danh mục các sáng tác trong sự nghiệp hội họa của Văn Cao đã không được liệt kê chi tiết như các tác phẩm âm nhạc và thơ của ông. Bởi vậy nhiều người muốn tìm hiểu về tài năng hội họa của Văn Cao không có mấy điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những sáng tạo hội họa của Văn Cao, và hầu như chỉ có thể căn cứ vào những ý kiến phê bình của các bạn văn nghệ đương thời của ông như Tạ Tỵ và Thái Bá Vân.

Các giọng ca thể hiện thành côngSửa đổi

Danh mục tác phẩmSửa đổi

Nhạc:

  • Anh em khá cầm tay
  • Bài ca biên giới
  • Buồn tàn thu (1939)
  • Thiên Thai (1941)
  • Đêm sơn cước
  • Đêm xuân
  • Gió núi
  • Chiều buồn trên sông Bạch Đằng
  • Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang (1941)
  • Bến xuân (viết chung với Phạm Duy)
  • Đàn chim Việt (1942)
  • Suối mơ (viết chung với Phạm Duy)
  • Thu cô liêu (1942)
  • Cung đàn xưa (1942)
  • Gò Đống Đa (1942)
  • Trương Chi (1943)
  • Tiến quân ca (1944)
  • Hải quân Việt Nam (1945)
  • Không quân Việt Nam (1945)
  • Công nhân Việt Nam
  • Bắc Sơn (1945)
  • Chiến sĩ Việt Nam (1945)
  • Làng tôi (1947)
  • Thăng Long hành khúc ca
  • Tiến về Hà Nội
  • Tình ca Trung du
  • Trường ca sông Lô (1947)
  • Ngày mùa (1948)
  • Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)
  • Dưới ngọn cờ giải phóng (1962)
  • Ta đi làm con suối (những năm 1970)
  • Mùa xuân đầu tiên (1976)

Thơ:

  • Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
    (1945, khi chứng kiến nạn đói năm 1945)
  • Anh có nghe không
    (Giai phẩm Mùa xuân - tháng 2 năm 1956)
  • Một đêm Hà Nội
  • Những ngày báo hiệu mùa xuân
  • Khuôn mặt em (1974)
  • Ai về Kinh Bắc
  • Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
  • Ba biến khúc tuổi 65 (tháng 9-1988)
  • Lá (xuất bản năm 1988)
  • Thời gian
  • Trôi
  • Năm buổi sáng không có trong sự thật
  • Phố Phái
  • Có lúc
  • Đường rừng
  • Những người trên cửa biển

Hội họa:

  • Chân dung bà Băng
  • Chân dung Đặng Thai Mai
  • Cô gái dậy thì
  • Cô gái và đàn dương cầm
  • Sám hối
  • Cuộc khiêu vũ của những người tự tử
  • Dân công miền núi
  • Thái Hà ấp đêm mưa
  • Cổng làng
  • Phố Nguyễn Du
  • Chợ vùng cao
  • Thanh niên vùng cao
  • Lớn lên trong kháng chiến
  • Cây đàn đỏ

Qua đờiSửa đổi

Theo những người thân và bạn bè kể lại thì sức khỏe của Văn Cao suy yếu nhanh trong những năm cuối đời. Ông không còn ăn được cơm mà chuyển sang ăn bột ngũ cốc do các cơ quan nội tạng bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ bỏ được thú vui uống rượu có từ thời trẻ.

Văn Cao qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 1995. Theo các phương tiện thông tin đại chúng thì nguyên nhân của điều này là do tuổi cao và cơn bạo bệnh ung thư phổi quái ác.

Đời tưSửa đổi

Gia đìnhSửa đổi

Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái.

Tính cáchSửa đổi

Đoạn mở đầu băng nhạc Văn Cao - Giấc Mơ Một Ðời Người do đạo diễn Đinh Anh Dũng thực hiện năm 1994, Văn Cao từng thẳng thắn bộc lộ tính cách rụt rè của ông trong giao tiếp với phụ nữ thời trai trẻ: "Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi." Những người từng tiếp xúc với Văn Cao, dù ở mức độ thân quen hay nổi tiếng khác nhau, đều có ghi nhận khá tương đồng về ông. Đó là một người thân hình gầy nhỏ, thâm trầm, thường trầm tư một mình, sâu sắc trong giao tiếp, không có xu hướng thích lớn tiếng hay lên giọng bậc trên trong những cuộc chuyện trò. Những người từng đối thoại với ông, dù quen biết hay không quen, nổi tiếng hay không nổi tiếng, đều ghi nhận ở Văn Cao khả năng đưa ra những nhận định rất kiệm lời nhưng với sự chính xác và sắc sảo của ngôn từ đến độ ít ai nghĩ tới. Họ cũng ghi nhận ở Văn Cao tính cách khiêm tốn, luôn biết lắng nghe người đối thoại và cũng ít khi nói đến những gì thuộc về thành tựu sự nghiệp cá nhân ông, trừ khi người khác muốn tìm hiểu. Người ta đôi khi vẫn lấy Phạm Duy và Văn Cao để so sánh những khác biệt đến mức tưởng như đối lập trong cá tính giữa hai con người thường được ví như đôi bạn tri kỷ hiếm có trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại. Phạm Duy vẫn là người có những đánh giá, phân tích chuyên môn uy tín, toàn diện, sâu rộng hơn bất cứ ai khác về tài năng, sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Văn Cao. Nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê trong tác phẩm nghiên cứu về sự kiện Nhân Văn - Giai Phẩm cũng từng nhận xét rằng "người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy". Điều này có được trước tiên bởi kiến thức và tầm vóc của Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc Việt Nam, một người nổi tiếng không chỉ bởi sự nghiệp âm nhạc mà còn cả bởi lòng tự tôn bản thân. Và quan trọng nữa là mối thân tình đặc biệt giữa ông và Văn Cao từ thuở hai người còn ở độ mười tám đôi mươi. Trong hồi ký của ông, Phạm Duy mô tả về người bạn kém mình 2 tuổi như sau, "thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."[32] Ngoài Phạm Duy, những người được coi là bạn gần gũi lâu năm của Văn Cao là Thái Bá Vân và Nguyễn Thụy Kha.

Đối lập với một Văn Cao thời trai trẻ có vẻ nhút nhát, rụt rè trong giao tiếp với phụ nữ là một Văn Cao của những hành động quyết đoán trong những năm sôi động của lịch sử Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Văn Cao học võ từ năm 9 tuổi. Thời trai trẻ ở Hải Phòng, Văn Cao đã nhiều lần lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ thuật. (...) Với Văn Cao việc phải trừ khử một người là điều ông không hề muốn. Nhưng vì nhiệm vụ cách mạng nên ông phải hành động. Ông từng viết:

Trong Văn Cao có hai con người. Con người của nghệ thuật và con người chiến sĩ cách mạng. Nhiều người muốn tìm hiểu phần con người thứ hai của ông. Nhất là những sự kiện mọi người gọi là "thành tích phi thường" ông đã làm trong thời gian phụ trách Đội trừ gian. Ông thường né tránh và ít khi nhắc đến. Có lần ông tâm sự với tôi: " Bố đã từng giết một con người Ông ta nhìn vào họng súng, nhìn bố với đôi mắt ngơ ngác như muốn hỏi - Sao lại giết tôi. Cho đến giờ, bố vẫn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy"."[11] Họa sĩ Tạ Tỵ, một người bạn văn nghệ thời trẻ của Văn Cao, cũng nhận xét về những đối lập trong tính cách của ông: "Văn Cao là mẫu người đặc biệt. Với vóc dáng nhỏ nhắn. Với nụ cười lắng chìm không thành tiếng. Với hàm răng ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh lùng dễ sợ lúc giận dữ, và dịu hiền khi tâm hồn chìm du vào dòng suy tưởng. (...) Chưa ai nghĩ tới và tưởng tượng nổi một Văn Cao trước những đối nghịch lớn, chứa đựng cái vóc dáng khiêm nhượng ấy. Người ta có thể cho là huyền thoại khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả để chi dùng trong khi hoạt động túng thiếu, đến lúc hành vi bị lộ, đã rút súng Colt 45 chĩa vào những người có mặt, bắt họ giữ nguyên vị trí, để mình rút lui, rồi sau ngày 19-8, mang giấy bạc thật đến hoàn lại số tiền đã trả bằng bạc giả với đôi lời xin lỗi. Cũng như ít ai biết tác giả Thiên Thai, Trương Chi ở tổ chức ám sát nội thành Hà Nội dưới thời Nhật. Bị hoàn cảnh xã hội lúc đó đẩy vào con đường nghẽn, Văn Cao phải lao tìm một lối sống đặc biệt. (...) Dù sao, Văn Cao vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng của một tinh cầu giá lạnh, với cô đơn dằng dặc ở cuối khung trời ngăn cách."[35]

Trong giới văn nghệ sĩ Việt, Văn Cao vẫn luôn nổi tiếng là người "sành rượu" và thậm chí có người từng mô tả Văn Cao đã nâng thú uống rượu thành một thứ nghệ thuật của riêng ông, giống như cá tính độc đáo của ông trong những lĩnh vực nhạc - họa - thơ vậy. Họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ (Mười khuôn mặt văn nghệ, 1970) từng kể về "khiếu uống rượu" của Văn Cao: "Đầu năm 1947, nhân chuyến lên Việt Bắc cùng Phạm Duy, tôi gặp Văn Cao ở Yên Bái, trong buổi chiều nắng tàn xuân thoi thóp trên đầu núi ngọn rừng, trên nỗi điêu tàn của một thành phố bắt đầu tiêu thổ! Chúng tôi ngồi trong quán ăn giữa trời. Bữa đó, tôi chứng kiến lần thứ nhất tài uống rượu của Văn Cao. Văn Cao uống hai chai đế, da mặt cứ tái đi và thái độ vẫn ung dung hoà nhã như chưa uống giọt nào. Lúc trước, tôi đã nghe nói về tửu lượng và sức hút thuốc phiện của Văn Cao. Theo anh em, Văn Cao có thể hút sáu, bảy mươi điếu liền trong một tối và uống tối thiểu một chai "Cổ nhát" sếch. Lúc vui, tôi hỏi. Văn xác nhận: "Đúng! "Moa" uống và hút như thế đó, nhưng không nghiện thứ nào cả. Có cũng vui, không cũng chẳng sao!".

Người con trai cả của Văn Cao là Văn Thao trong một bài viết cho Báo Công an nhân dân (2012) đã không giấu nổi sự khâm phục về "khiếu ẩm thực" của cha mình: Cha tôi cũng hay được mời đi ăn vì vậy nếu thấy có món nào ngon và lạ miệng ông đều tìm hiểu cách chế biến rồi về nhà đợi khi có điều kiện là tiến hành nấu thử cho gia đình thưởng thức trước. Có lần tôi hỏi ông: "Làm thế nào mà bố lại biết nấu nhiều món ăn ngon thế?". Trầm ngâm một lát, ông mới thủng thẳng nói: "Ai chẳng thích ăn ngon! Nhưng để nấu cho ngon thì không phải ai cũng nấu được. Một miếng thịt cho vào chảo rán lên rồi thái ra chấm nước mắm ăn sẽ không thể bằng miếng thịt được tẩm ướp với một chút muối, mì chính, tỏi và húng lìu rồi mới đem rán. Khi ăn ta chấm với nước mắm chanh ớt, tỏi và một chút hạt tiêu kèm theo vài cọng rau mùi mới thấy hết được giá trị của gia vị đã làm cho miếng thịt rán thơm ngon lên gấp bội. Vì thích ăn ngon nên những khi có điều kiện để mời bạn đến uống rượu là bố phải "lăn vào bếp". Nhìn mọi người ăn ngon miệng là bố thấy vui... Nấu ăn cũng là một nghề đầy tính nghệ thuật".[36] Qua những dòng mô tả từ chính người con trai của ông thì có thể thấy Văn Cao thực sự là một người "sành ăn uống", "sành ẩm thực". Ông không chỉ tinh tế trong cách thưởng thức (bao gồm cả cách uống rượu) mà cũng thành thạo trong cách chế biến những món ăn ông ưa thích.

Câu nóiSửa đổi

  • Đúng là lớp trẻ bây giờ chỉ biết Văn Cao là tác giả Tiến quân ca, còn Văn Cao thế nào thì chịu. (1993)
  • Đầu đời Văn Cao đã có một Kim Tiêu, không ngờ cuối đời lại gặp một Ánh Tuyết. (lời của Văn Cao nói với ca sĩ Ánh Tuyết khi nghe Ánh Tuyết hát bài Trương Chi của ông. Theo như Ánh Tuyết thuật lại thì khi đó Văn Cao đã không cầm được nước mắt.)
  • Trương Chi là tôi đấy. (nói với ca sĩ Ánh Tuyết)[37]
  • Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta
  • Người đi dọc biển/ Không để lại dấu chân. (trích dẫn thơ Văn Cao)
  • Con thuyền đi qua / để lại sóng / Đoàn tàu đi qua / để lại tiếng / Đoàn người đi qua / để lại bóng / Tôi không đi qua tôi / để lại gì?
  • Giữa sự sống và sự chết / Tôi chọn sự sống / Để bảo vệ sự sống / Tôi chọn sự chết. (Chọn, 26.8.1957)
  • Có lúc / một mình một dao trong rừng / không sợ hổ. / Có lúc / ban ngày nghe lá rụng sao / hoảng hốt. / Có lúc / nước mắt không thể chảy / ra ngoài được. (Có lúc, 1963)
  • Tiếng kêu ở trong tôi / Có xót xa có cả vui mừng / Tiếng kêu của một khúc thép đỏ / Trong chậu nước (Cạn)
  • Kỉ niệm trong tôi / Rơi / như tiếng sỏi / trong lòng giếng cạn (Thời gian)
  • Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại / Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi. (Những ngày báo hiệu mùa xuân)
  • Tôi không được làm trái đầu mùa / Những trái cây cao giá / Tôi, Một trái cây muộn còn sót lại cành. (Sự sống thật, 1970)
  • Những bó hoa mang tới / chúc tụng / Thành công một con người / Hàng ngày hàng ngày / Xây thành cái mồ chôn / Con người thành công ấy / Đôi khi người ta bị giết / bằng những bó hoa. (Những bó hoa, 17.3.1974)
  • Tin tất cả và hoài nghi tất cả / Chúng ta là những kẻ chài quen biển / Thấy ngọn lửa quay đầu / Biết bão táp đang trở mình trên mặt sóng (Những ngày báo hiệu mùa xuân)
  • Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp. (Mấy ý nghĩ về thơ)
  • Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo.
  • Một trong những hướng xây dựng nhân vật là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở đường cho tương lai. (Mấy ý nghĩ về thơ).
  • Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng.
  • Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường thi với hai truyện Thiên thai và Đào nguyên. Người sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi. (Lời tựa cho bài Thiên Thai, 1944. Thời này Văn Cao thường tự gọi mình là "Người sông Ngự".)
  • Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn. (Đề tặng dưới tựa Buồn Tàn Thu, 1939)
  • Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền. (Lời bạt cho tập nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên", Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM, 1991)
  • Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ chính là ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nữa. (Lời bạt cho tập nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên", Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM, 1991)
  • Với bố, phải ngồi lại để viết hồi ký có nghĩa là cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của mình đã chấm hết. Để viết cho trung thực và khách quan, khi nhìn lại cả cuộc đời mình, dám nhận những sai lầm của mình trong các mối quan hệ xã hội đã khó, tự đánh giá và khẳng định được những tác phẩm của mình ở tầm cỡ nào và bảo vệ những quan điểm nghệ thuật của mình còn khó hơn. Còn viết hồi ký để đề cao mình, thanh minh cho mình, có khi dẫn đến việc nói xấu và hạ thấp vai trò của người này người khác... thì bố không làm được. Vì thế mà bố không viết hồi ký. Theo bố hãy để mọi người nghĩ, tìm hiểu và viết về bố thông qua chính những tác phẩm của mình thì khách quan hơn... Mà biết đâu con cũng sẽ là người viết cho bố? (trả lời câu hỏi của con trai cả là họa sĩ Văn Thao "Sao bố không viết hồi ký?")[38]
  • Tôi là tác giả "Quốc ca", bao nhiêu năm tôi phải giữ gìn, dù sao tên tuổi mình cũng đã gắn với một cái gì của đất nước, tuy nhỏ bé nhưng thiêng liêng. Ông cũng biết đấy, dân nhạc tài hoa thường anh nào trong đời chẳng có ba bốn cô xinh đẹp vây quanh. Còn tôi, tôi phải giữ gìn, giữ gìn vì tên tuổi mình phải trong sạch, hai nữa với gia đình, phải xứng đáng với người vợ của mình. (trong cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu văn học Hà Minh Đức)[39]
  • Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salion unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh - Nhà Khai Trí Tiến Ðức - và được các báo khen ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến việc trả tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ bắc tới nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Ðêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập một đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy. Và tôi biết họ đang hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ hát được. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới khi đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng, những bộ xương khô đét loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một ống sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái, nó khoảng lên ba, tôi ngờ như đã gặp cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ lạc, cũng không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định, Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về căn gác, tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài "Tiến quân ca". (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hằng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. (Trích dẫn hồi ký Tại sao tôi viết "Tiến quân ca")
  • ...Còn về lời ca [của "Tiến quân ca"], có người bảo tôi là tại sao có đoạn lại viết: "Thề phanh thây uống máu quân thù!" Tôi lặng người, sau đó trả lời: "Hoàn cảnh lúc đó, nếu không có 2 triệu người chết đói dần mà tôi đã từng chứng kiến khi bắt đầu sáng tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như vậy. (...) Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến nay."[40]
  • Huế là một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có những điều gây cảm xúc cho sáng tác. Đối với nơi đó người ta phải suy nghĩ nhiều không vì lịch sử mà về một nền văn hóa. Những người Huế sống tự hào và đầy sáng tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế tôi làm được âm nhạc và thơ. (trong một lá thư gửi cho Tạp chí Sông Hương, ngày 2/10/1986)
  • Tại sao tôi nói đến Thiên Thai là bởi vì một nơi một cõi nào đó người ta coi như đất hứa mà cái đất hứa ấy thì không ai tìm được trên cái cõi thế gian này, đi tìm mãi trong những cái hoài niệm của mình tuổi thanh niên thì nhớ ra rằng có lần tìm ra được. (Trong phim tài liệu ca nhạc Văn Cao - Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
  • Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi. (Trong phim tài liệu ca nhạc Văn Cao - Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
  • ...Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh; có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển. Cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người cần phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong hạt bụi. (Tuyển tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1994)

Dấu ấn và di sản văn nghệSửa đổi

Trong lĩnh vực âm nhạc, Văn Cao là người có công khai phá và giúp hoàn thiện một số thể loại của tân nhạc Việt Nam như nhạc trữ tình (nhạc tiền chiến),[41] hùng ca (nhạc cách mạng, nhạc kháng chiến),[42] và trường ca.[43] Trong lĩnh vực thi ca, ông cũng là một trong ít người không ngừng đi tiên phong với những cách tân mang tính đột phá-sáng tạo trong thơ Việt Nam hiện đại.[44][45][46] Đã có những quan điểm chuyên môn xem ông là một trong những người đi khai phá, mở đầu cho sự phát triển của thể loại trường ca thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt kể từ nửa cuối thập niên 1950 trở đi.[47][48][49][50][51] Tuy nhiên, những đóng góp của ông cho thơ ca và hội họa[5][52][53] dân tộc ít khi được nhắc tới so với những cống hiến to lớn về âm nhạc của ông. Văn Cao được xem là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử phát triển của văn hóa Việt Nam một con người mà sự kết hợp nhạc-họa-thơ là xuyên suốt trong gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng của ông. Trong địa hạt âm nhạc của ông, ngoài những nét đẹp về giai điệu, ca từ cũng mang nhiều tính thơ và họa. Còn trong địa hạt thơ của ông, họa tính là rất đặc trưng.[54]

Ở Văn Cao, tầm vóc không phải là thứ lượng hóa, tức là tính bằng con số những sáng tác. Bởi xét về số lượng, những sáng tác của Văn Cao (đặc biệt trong lĩnh vực nhạc và thơ) còn ít hơn đáng kể ngay cả so với nhiều nhạc sĩ hoặc thi sĩ ở tầm trung tại Việt Nam. Đánh giá Văn Cao cần nhìn xuyên suốt tư tưởng của ông trong cả ba lĩnh vực là nhạc-họa-thơ. Xét về nhiều phương diện, Văn Cao là mẫu nghệ sĩ hiếm có bởi lịch sử Việt Nam không có khuynh hướng tạo ra những nghệ sỹ có tinh thần dám khai phá sáng tạo như ông. Mẫu người trí thức hoặc nghệ sĩ điển hình trong xã hội Việt Nam (từ chế độ phong kiến, tới phong kiến nửa thực dân, rồi thời phân chia quốc cộng) thường là con người biết nương theo hoàn cảnh, trở thành viên chức tận tụy phục vụ chế độ chính trị anh ta đang sống. Văn Cao chưa bao giờ nuôi tham vọng chính trị. Ông tham gia Việt Minh chỉ vì lòng yêu nước. Ông luôn là người nghệ sĩ có tinh thần tự do sáng tạo. Ông là người nghệ sỹ độc lập, phi chính trị. Đây cũng là nguyên nhân khiến ông trở thành nạn nhân trong sự kiện đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm khiến một thời gian dài ông không thể sáng tác. Đây có thể xem là một đặc tính ít mang tính truyền thống hơn cả trong con người của Văn Cao. Có thể nó có ảnh hưởng ít nhiều từ văn hóa phương Tây, cái mà ông có thể tiếp nhận từ hệ thống giáo dục thuộc địa của Pháp. Mặc dù là đôi bạn văn nghệ tri kỷ, nhưng về nhiều phương diện Văn Cao trái ngược với Phạm Duy. Văn Cao là người đi tiên phong, đặt nền móng, gợi mở nhiều hướng phát triển mới cho nhạc và thơ Việt hiện đại nhưng ông chưa bao giờ thực sự thăng hoa về mặt lượng (so với sự dồi dào về mặt chất) ở cả hai lĩnh vực. Còn Phạm Duy là người kế thừa nhiều khai phá từ Văn Cao và phát triển chúng đến độ phì nhiêu.

Văn Cao đã được nhiều người coi là một trong những danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thời hiện đại.[55][56][57] Là một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn từ phong phú và biến hóa trong các sáng tác nhạc và thơ của ông, cống hiến của Văn Cao cho riêng tiếng Việt - với tư cách một ngôn ngữ có khả năng chuyên chở đầy đủ những sắc thái cảm xúc và tư tưởng của người nghệ sĩ - đã thậm chí được so sánh với cống hiến của Nguyễn Du cho riêng ngôn ngữ thi ca dân tộc. Là người tài hoa được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực như nhạc-họa-thơ[17] nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao cũng được xem là một điển hình của định mệnh "tài"[58] và "tai"[59] trong lịch sử văn hóa của Việt Nam. Ông không có những quãng thời gian đủ dài và suôn sẻ trong sáng tạo nghệ thuật so với những tên tuổi như Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn bởi bối cảnh chính trị, văn hóa đặc thù của miền Bắc so với miền Nam Việt Nam những năm chiến tranh chia cắt. Đánh giá về Văn Cao, trong nhiều bài viết các tác giả không ngần ngại gắn cho ông mỹ từ thiên tài, trong đó có Phạm Duy (2007), Thụy Khuê (2010), Đỗ Ngọc Thạch (2013), hay Trần Mạnh Hảo (2013). Đây mặc định có thể xem là đánh giá ở mức độ cao nhất đối với bất cứ ai hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam. Trong văn học nghệ thuật của dân tộc, trước Văn Cao có lẽ chỉ có Nguyễn Du trong thi ca là thường được gắn với mỹ từ thiên tài nhiều hơn cả. Việc Phạm Duy dùng mỹ từ đó cũng cho thấy sự trân trọng ông dành cho Văn Cao lớn thế nào, bởi Phạm Duy với lòng tự tôn của một cây đại thụ hàng đầu tân nhạc Việt không phải người dễ dãi trong đánh giá thành tựu của đồng nghiệp. Với những kiến thức phong phú về nhạc lý và văn hóa dân tộc, Phạm Duy hơn ai hết có đầy đủ thẩm quyền đánh giá về tài năng của Văn Cao.

Nhiều người nghiên cứu sâu về Văn Cao (trong đó có bạn vong niên của ông là nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha và con trai trưởng của Văn Cao là họa sĩ Văn Thao) thường nhắc tới khả năng đưa ra những tiên tri hay dự đoán đến mức chính xác đáng kinh ngạc trong những sáng tác âm nhạc của ông. Nhiều sự kiện đã xảy ra trong các tác phẩm của Văn Cao trước khi chúng được ghi nhận trong thực tế lịch sử Việt Nam thế kỷ ông đã sống.[60] Một số tác phẩm điển hình là Không quân Việt Nam và Tiến về Hà Nội.[61]

Nhận xétSửa đổi

Về cuộc đời và sự nghiệpSửa đổi

Về nhân cáchSửa đổi

Trong âm nhạcSửa đổi

Trong thơ caSửa đổi

Trong hội họaSửa đổi

Tri ânSửa đổi

Những tác phẩm về Văn CaoSửa đổi

Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản nhạc solo cho piano mang tên Van Cao's Meditation vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi Văn Cao qua đời (1995) thì Robert Ashley vẫn chưa một lần gặp mặt tác giả của Tiến quân ca.

Trong lĩnh vực điêu khắc, đã có một bức tượng bán thân của Văn Cao được đặt trong khuôn viên trường Trung học Văn hóa - Nghệ thuật Hải Phòng từ năm 2002. Cũng trong cuộc trò chuyện với báo chí nhân dịp khánh thành bức tượng bán thân của cha mình tại Hải Phòng năm 2002, họa sĩ Văn Thao (con trai trưởng của Văn Cao) nói: "Năm 1985, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng tặng cha tôi bức tượng tạc khuôn mặt ông bằng thạch cao màu đen, cao 20 cm. Bố tôi rất thích và đề từ: Bức tượng cho tôi cảm giác tôi đang muốn nói một câu gì đó. Hè vừa rồi, tôi mới có điều kiện đi quyên góp từ bạn bè để phóng to bức tượng của Phạm Văn Hạng bằng đất sét, rồi đổ khuôn thạch cao, hết 1 tháng rưỡi. Rồi đưa khuôn ấy cho nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng. Bức tượng hoàn thành cách đây 3 tháng, bằng đồng hun, cao 1,2 m." Văn Thao cũng thổ lộ với báo chí về mong muốn lập một bảo tàng cá nhân cho người cha nổi tiếng của ông: "Tôi chỉ muốn làm cho được một bảo tàng về cha tôi. Đó là hoạt động ý nghĩa nhất tôi phải làm bằng được trong những năm tới. Cho đến nay, ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, Nam Định có một trường tiểu học mang tên Văn Cao. Tôi đang cố gắng xin đất ở huyện Vụ Bản, để Bảo tàng Văn Cao được tọa lạc tại chính quê hương mình, cần vài nghìn mét vuông để làm khu lưu niệm, vườn tược, vườn Thiên Thai. Tôi còn phải lo sưu tập, phục chế, tìm kiếm những bức vẽ, minh họa của cha và rất nhiều bài thơ bị thất lạc. Đến giờ, ông mới chỉ có 2 tập thơ Lá và Tuyển tập Văn Cao. Từ lâu lắm, cha tôi đã có những bài thơ cô đúc và rất hiện đại, tinh tế và sâu thẳm."[85]

Hiện nay cũng đang có một số đề xuất từ những người có vai trò trong quản lý văn hóa ở Việt Nam về việc dựng tượng đài Văn Cao ở một địa điểm công cộng (như một công viên nhỏ) tại Hà Nội. Những người ủng hộ đề xuất này bao gồm có nhà sử học Dương Trung Quốc, họa sĩ Trần Khánh Chương (hiện là Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam), và nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân (hiện là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam).[86][87]

Trong lĩnh vực nhiếp ảnh, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán là người sở hữu một bộ ảnh với số lượng lớn về Văn Cao do chính ông tự tay chụp, do có nhiều điều kiện thời gian đến thăm Văn Cao những năm nhạc sĩ - thi sĩ còn sống. Nguyễn Đình Toán vốn quen biết và sống không xa nhà riêng của gia đình Văn Cao.

Trong lĩnh vực phim ảnh, đạo diễn Đinh Anh Dũng là người có dịp tiếp xúc với Văn Cao không lâu trước khi nhạc sĩ qua đời và đã đạo diễn 2 bộ phim tài liệu - ca nhạc về Văn Cao: Văn Cao - Giấc mơ một đời người (1992) và Văn Cao - Buổi sáng có trong sự thật (1995).

Trong lĩnh vực văn học, nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha, đồng thời là một nhà "Văn Cao học", cho xuất bản cuốn tiểu thuyết chân dung mang tên Văn Cao - Người đi dọc biển (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2011).

Vinh danhSửa đổi

Một năm sau ngày nhạc sĩ Văn Cao mất, thành phố Hải Phòng đã đặt tên ông cho một con đường ở quận Ngô Quyền. Huế cũng đã có ngay đường "Văn Cao" ở phường Xuân Phú.
Đà Nẵng đã có đường "Văn Cao" ở quận Thanh Khê. Thành phố Hồ Chí Minh và Nam Định cũng đều có đường mang tên ông. Năm 2005, mười năm sau ngày Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên "Văn Cao" đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thủ đô nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. Ông Nguyễn Quốc Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó, đích thân tới nhà gia đình Văn Cao vào hôm trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Đường Văn Cao sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây.

Các con đường ở một số tỉnh thành tại Việt Nam có mang tên ông bao gồm:

  1. Đường Văn Cao, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng
  2. Đường Văn Cao, phường Thạc Gián và Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, Đà Nẵng
  3. Phố Văn Cao, phường Liễu Giai, quận Ba Đình và phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội
  4. Đường Văn Cao, phường Phú Thạnh và Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh
  5. Đường Văn Cao, phường Tân Lợi, Buôn Ma Thuột, Đắk Lăk
  6. Đường Văn Cao, phường An Hòa, Rạch Giá, Kiên Giang
  7. Đường Văn Cao, Thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng
  8. Phố Văn Cao, phường Chi Lăng, Lạng Sơn, Lạng Sơn
  9. Đường Văn Cao, phường Năng Tĩnh, phường Văn Miếu và xã Lộc An, Nam Định, Nam Định
  10. Đường Văn Cao, phường Xuân Phú, Huế, Thừa Thiên Huế
  11. Đường Văn Cao, phường Mỹ Phước, Bến Cát Bình Dương

Tham khảoSửa đổi

Bởi Văn CaoSửa đổi

Sách:

  • Cửa biển, tuyển tập thơ in chung của Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt và Văn Cao. (Nhà xuất bản Văn nghệ, 1956)
  • Lá, tuyển tập thơ Văn Cao. (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1988)
  • Thiên Thai, tuyển tập nhạc-thơ Văn Cao. (Nhà xuất bản Trẻ, 1988)
  • Tuyển tập thơ Văn Cao. (Nhà xuất bản Văn học, 1994)
  • Văn Cao - Tác phẩm thơ. (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2013)

Tiểu luận, hồi ký:

  • Một vài ý nghĩ về thơ (Báo Văn Nghệ, số 3-1957)
  • Tại sao tôi viết "Tiến quân ca" (1976)

Về Văn CaoSửa đổi

Trong cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao, những người là bạn văn nghệ gần gũi và có nhiều ghi chép giá trị về ông là nhạc sĩ Phạm Duy (bạn lâu năm và đồng thời là người có đánh giá chuyên môn toàn diện nhất về sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao), họa sĩ Tạ Tỵ (cùng với Thái Bá Vân, là những người có hiểu biết sâu về tài năng mỹ thuật của Văn Cao), nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha (tác giả của cuốn tiểu sử - tiểu thuyết chân dung đầu tiên về Văn Cao) và họa sĩ Văn Thao (con cả của Văn Cao).

Danh sách tham khảo

Sách:

  • Bích Thuận, Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách. (Nhà xuất bản Thanh niên, 2007)
  • Nguyễn Thụy Kha (chủ biên), Văn Cao, cuối cùng và còn lại. (Nhà xuất bản Trẻ, 1998)
  • Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao - Người đi dọc biển. (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2011)
  • Nhiều tác giả, Văn Cao, cuộc đời và tác phẩm. (Nhà xuất bản Văn học, 1996)
  • Phạm Duy, Hồi ký (1989)
  • Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ (Tủ sách Nam Chi, Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản, 1970)
  • Văn Thao, Văn Cao, đời và nghiệp (hồi ức)

Bài viết (tạp chí chuyên ngành), luận văn:

  • Đỗ Thu Hà, Chất hội họa trong thơ Văn Cao. (Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội)
  • Nguyễn Nguyệt, Hội họa Văn Cao. (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 320, tháng 2-2011)
  • Nguyễn Văn Thuấn & Lê Thị Thuyên, Hình tượng Trương Chi trong ca khúc Văn Cao, Phạm Duy, Phó Đức Phương (tiếp cận liên văn bản). (Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường ĐHSP - Đại học Huế, 2016)
  • Xuân Diệu, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao. (Tạp chí Văn Nghệ, số 14, 7/1958)
  • Võ Tường Duy, Cảm hứng trữ tình trong nhạc của Văn Cao. (Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Ngữ văn, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ, 2014)

Nguồn khác (báo, tạp chí điện tử):

  • Ánh Tuyết, Nhạc sĩ Văn Cao: "Trương Chi là tôi đấy". (Báo Tuổi Trẻ điện tử, 07/07/2013)
  • Dân Huyền, Nhạc sĩ Văn Cao và những sáng tác về đề tài cách mạng. (Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam - VOV.vn, 02/09/2016)
  • Đào Duy Hiệp, Đọc lại bài thơ Giấc mơ của Văn Cao. (VnExpress.net, 8/7/2008)
  • Đặng Anh Đào, Mùa xuân bí ẩn trong thơ Văn Cao. (Báo Công an nhân dân điện tử, 04/01/2009)
  • Đặng Tiến, Văn Cao, tiếng hát Lưu trữ 2018-05-29 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 26/7/2015)
  • Đinh Vũ Hoàng Nguyên, Những suy nghĩ tản mạn khi xem bức ảnh chân dung Văn Cao. (Báo Thể thao & Văn hóa, 05/09/2008)
  • Đỗ Thị Mỹ Hà, Biểu tượng khuôn mặt trong thơ Văn Cao Lưu trữ 2017-09-29 tại Wayback Machine. (Trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, 14/09/2009)
  • Hà Minh Đức, Nhạc sĩ Văn Cao và chuyện kể bên giường bệnh. (Báo Công an nhân dân điện tử, 03/12/2013)
  • Hoàng Long, Văn Cao và chân trời thi ca mộng tưởng. (VnExpress.net, 14/9/2005)
  • Huỳnh Văn Hoa, Xuân về, thương nhớ Văn Cao. (Báo Đà Nẵng điện tử, 27/01/2014)
  • Khuất Bình Nguyên, Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc Lưu trữ 2020-02-17 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 19/10/2013)
  • Lê Thiếu Nhơn, Văn Cao trong cõi thơ. (Báo Công an nhân dân điện tử, 27/06/2017)
  • Linh Đan, Nhớ nhạc sĩ Văn Cao. (Báo Lâm Đồng điện tử, 04/07/2012)
  • Ngô Minh, Văn Cao với "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế". (Báo Công an nhân dân điện tử, 21/12/2005)
  • Nguyễn Bội Nhiên, Mùa thu trong âm nhạc Văn Cao. (Báo Công an TP Đà Nẵng, 17/9/2013)
  • Nguyễn Thanh Giang, Tản mạn về người viết Quốc ca. (1992)
  • Nguyễn Thụy Kha, Năm Đinh Hợi 1947 với Văn Cao. (Báo điện tử Sức khỏe & Đời sống, 27/1/2017)
  • Nguyễn Thụy Kha, Từ Sông Hương đến "Thiên Thai". (Tạp chí Sông Hương, 24/02/2012)
  • Nguyễn Toàn, Tự tình dân tộc trong ca khúc Mùa xuân đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao Lưu trữ 2018-01-03 tại Wayback Machine. (Tạp chí điện tử Pháp Lý, 7/02/2017)
  • Nguyễn Trọng Tạo, Ba biến khúc của Văn Cao. (Báo An ninh Thủ đô, 11/07/2011)
  • Phan Khắc Huy, Bàn về nghệ thuật của Văn Cao qua hai ca khúc Thiên thai và Trương Chi. (Văn nghệ Tiền Giang, 03/07/2009)
  • Phương An, Lãng du cùng Văn Cao. (Báo Dân trí, 16/02/2013)
  • P.K., Nhà thơ Văn Cao: Tôi không được làm trái tim đầu mùa.... (Báo Công an nhân dân điện tử, 08/07/2011)
  • Tân Linh, Hát "Tiến về Hà Nội", nhớ Văn Cao. (Báo An ninh Thủ đô, 16/09/2014)
  • Thanh Thảo, Nhân 80 năm ngày sinh Văn Cao: Thời gian cô đặc trong thơ Văn Cao. (Báo Bình Định điện tử, 14/12/2003)
  • Trần Hoài Anh, Tâm thức trôi trong thơ Văn Cao Lưu trữ 2017-09-01 tại Wayback Machine. (Trang điện tử Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, 16.4.2011)
  • Trần Khánh Chương (Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam), Kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao (1923-2013): Có một họa sĩ tài ba, Văn Cao Lưu trữ 2017-09-22 tại Wayback Machine. (Trang điện tử của Hội Mỹ thuật Việt Nam, 2013)
  • Trương Quang Lục, Vài kỷ niệm khó quên về nhạc sĩ Văn Cao. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao. (Báo Sài Gòn Giải Phóng, 17/11/2013)
  • Văn Bảy, 20 năm ngày mất Văn Cao: Một họa sĩ trọn vẹn và rộng rãi. (Báo Thể thao & Văn hóa, 13/07/2015)
  • Văn Thao, Văn Cao và Phạm Duy cần làm rõ những chuyện đã bị tam sao thất bản. (Tuần báo Văn Nghệ TP.HCM, 31/08/2017)
  • Văn Thao, Cành đào cuối cùng của Văn Cao . (Báo Công an nhân dân điện tử, 30/01/2017)
  • Văn Thao, Văn Cao với Đội danh dự Việt Minh. (Báo Công an nhân dân điện tử, 02/09/2015)
  • Văn Thao, Văn Cao với "Trường ca Sông Lô". (Tạp chí Sông Hương, 07/10/2014)
  • Văn Thao, Nhạc sĩ Văn Cao với ca khúc Tiến về Hà Nội. (Báo Công an nhân dân điện tử, 30/10/2009)
  • Văn Thao, Bữa cơm tất niên. (Báo Công an nhân dân điện tử, 14/02/2013)
  • Văn Thao, Văn Cao với ca khúc "Mùa xuân đầu tiên". (Tạp chí Sông Hương, 03/07/2009)
  • Vân Long, Nhớ người viết Tiến quân ca. (Báo Công an nhân dân điện tử, 02/09/2005)
  • Võ Thị Xuân Hà, Người con đồng bệnh tương liêu của Văn Cao. (Tạp chí Sông Hương, 12/10/2009)
  • Vũ Hào, Văn Cao, tiếng đàn lạnh và đôi mắt em. (Báo Giáo dục và Thời đại, 15/10/2013)
  • Vũ Nho, Văn Cao, một lối thơ riêng Lưu trữ 2017-09-01 tại Wayback Machine. (Tạp chí văn nghệ quân đội, 17/03/2014)
  • Vũ Quần Phương, Đóng góp của Văn Cao vào thơ đương đại. (Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, 12/02/2014)
  • Xuân Ba, Một chuyện với Văn Cao. (Báo điện tử Tiền Phong, 30/01/2017)
  • Xuân Ba, Những khúc buồn của tác giả Tiến Quân Ca. (Báo Công an nhân dân điện tử, 17/08/2016)

Phim ảnh:

  • Đinh Anh Dũng (đạo diễn): Văn Cao - Giấc mơ một đời người (phim tài liệu ca nhạc, 1992)
  • Đinh Anh Dũng (đạo diễn): Văn Cao - Buổi sáng có trong sự thật (phim tài liệu ca nhạc, 1995)

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b c d Thanh Thảo, Tưởng niệm 25 năm ngày Văn Cao qua đời: Văn Cao, người của xã hội. (Báo Thanh Niên điện tử, 04/07/2020)
  2. ^ Phạm Duy, Văn Cao Trong Tôi. (Âm nhạc Online - amnhac.fm, 9.10.2007). Phạm Duy (2007): "...Trường ca Sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta, là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giàu cho âm nhạc Việt Nam. Tôi muốn được công khai tỏ lòng biết ơn thiên tài Văn Cao trong buổi nói chuyện này." [Chú thích: Trích dẫn theo nhạc sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc Phạm Duy trong bài nói chuyện về sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Văn Cao tại Phòng trà Tình ca, TP. Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2007.]
  3. ^ Nguyễn Nguyệt, HỘI HỌA VĂN CAO. (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 320, tháng 2-2011)
  4. ^ Trần Khánh Chương (Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam), Kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao (1923-2013): Có một họa sĩ tài ba, Văn Cao Lưu trữ 2017-09-22 tại Wayback Machine. (Trang điện tử của Hội Mỹ thuật Việt Nam, 2013)
  5. ^ a b Văn Bảy, 20 năm ngày mất Văn Cao: Một họa sĩ trọn vẹn và rộng rãi. (Báo Thể thao & Văn hóa, 13/07/2015)
  6. ^ a b c d e Trích dẫn theo tác giả Lê Thiếu Nhơn trong bài viết Văn Cao trong cõi thơ (Báo Công an nhân dân điện tử, 27/06/2017).
  7. ^ Nhà thơ Văn Cao: Tôi không được làm trái tim đầu mùa... (Báo Công an nhân dân điện tử, 08/07/2011)
  8. ^ Vũ Quần Phương, Đóng góp của Văn Cao vào thơ đương đại. (Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, 12/02/2014)
  9. ^ Hà Thị Hoài Phương, Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Văn Cao. (Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, 15/10/2015)
  10. ^ Nguyễn Thụy Kha, Năm Đinh Hợi 1947 với Văn Cao. (Báo điện tử Sức khỏe & Đời sống, 27/1/2017)
  11. ^ a b c d Văn Thao, Văn Cao với Đội danh dự Việt Minh. (Báo Công an nhân dân điện tử, 02/09/2015)
  12. ^ Văn Thao, Quán Biên Thùy và chuyện trong dinh Hoàng A Tưởng. (Báo Công an nhân dân điện tử, 31/08/2016)
  13. ^ a b Trích dẫn theo nhạc sĩ Phạm Duy trong bài nói chuyện về sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Văn Cao tại Phòng trà Tình ca, TP. Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2007.
  14. ^ a b Trích dẫn theo tác giả Đặng Anh Đào (con gái của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Đặng Thai Mai) trong bài viết Thiên tài và đa tài (Báo Công an nhân dân điện tử, 22/08/2009).
  15. ^ Tạ Tỵ: "Văn Cao nhập cuộc không phải bằng tài năng đơn độc mà bằng một thác lũ nghệ thuật, chùm lấp vòm trời Kinh đô Văn nghệ. (...) Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ." (Mười khuôn mặt văn nghệ, 1970)
  16. ^ Phạm Duy: "...Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. (...) Hình như Văn Cao có đi học vẽ ở trường Cao đẳng Mỹ thuật như tôi, nhưng chắc chắn anh đã được hoạ sĩ Lưu Văn Sìn dắt vào hội hoạ. Văn Cao vẽ rất giỏi. Tôi giữ được bức tranh tự hoạ của Văn Cao, tranh sơn dầu vẽ trên bìa cứng cho tới ngày Pháp đánh Saigon vào năm 1945 thì mất, tiếc quá! Văn Cao làm thơ cũng rất hay. Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận (...) Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi..." (trích dẫn từ hồi ký của nhạc sĩ, nhà nghiên cứu tân nhạc Phạm Duy)
  17. ^ a b Nguyễn Thị Ngọc Hà, Tản mạn văn, nhạc, họa Lưu trữ 2017-10-03 tại Wayback Machine. (Tạp chí văn nghệ quân đội, 08/02/2016). Trích dẫn tác giả: "Ở Việt Nam, trường hợp tiêu biểu cho sự song hành ba tài năng trong một con người là Văn Cao. Ông là nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ. Nhiều đồng nghiệp đã gọi ông là "nghệ sĩ trên nghệ sĩ". Những ca khúc bất hủ của Văn Cao đã nằm lòng nhiều lứa tuổi từ trước Cách mạng tháng Tám đến bây giờ. Tất cả những nhạc phẩm, ông đều phổ từ thơ của ông hoặc tự viết ca từ cho ca khúc của mình. Điều đặc biệt là, những bài thơ, những ca từ ông viết ra đều mang màu sắc hội họa, bởi ngoài tài danh văn chương và âm nhạc, ông còn là một họa sĩ đích thực. Từ những năm 19431945, những bức sơn dầu, bột màu của ông đã được đánh giá cao trong triển lãm mĩ thuật. Hiện nay một số tranh của ông vẫn được lưu giữ trong Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam."
  18. ^ Gia đình nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng ca khúc Tiến quân ca.
  19. ^ a b c d Nguyễn Thanh Giang, Tản mạn về người viết Quốc ca Việt Nam đăng trên Talawas 2 tháng 12 năm 2004.
  20. ^ a b c Tiểu sử Văn Cao trên trang web của thành phố Hải Phòng
  21. ^ Tiểu sử Văn Cao Lưu trữ 2008-03-09 tại Wayback Machine trên trang của Bộ Văn hóa Thông tin
  22. ^ Hồi ký Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca? của Văn Cao
  23. ^ Trích dẫn theo tác giả Nguyễn Thụy Kha trong bài viết "Năm Đinh Hợi 1947 với Văn Cao" (Báo điện tử Sức khỏe & Đời sống, ngày 27 tháng 1 năm 2017).
  24. ^ Quán Biên Thùy và chuyện trong dinh Hoàng A Tưởng.
  25. ^ Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao
  26. ^ Nhạc sĩ Văn Cao: "Trương Chi" thời cuối thế kỷ 20? trên RFA
  27. ^ 'Mùa xuân đầu tiên' và người tiên tri của thời đại.
  28. ^ Văn Cao một thiên tài, một số phận. Truy cập 2 tháng 10 năm 2015.
  29. ^ Văn Cao với ca khúc Mùa xuân đầu tiên. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015.
  30. ^ Một người Gia Nã Đại và âm nhạc Phạm Duy
  31. ^ Văn Cao - Cõi mơ: Nổi bật một nhân cách và tài năng lớn - Báo Tuổi Trẻ, Hà Nội Mới đăng lại
  32. ^ a b c d e f g h i j Phạm Duy,
  33. ^ Phạm Duy và cảm xúc về nhạc sĩ Văn Cao trên VnExpress
  34. ^ Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 18-34
  35. ^ a b c Tạ Tỵ, Văn Cao, một tinh cầu giá lạnh, trong sách Mười khuôn mặt văn nghệ. (Tủ sách Nam Chi, Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản, 1970)
  36. ^ a b Văn Thao, Bữa cơm tất niên. (Báo Công an nhân dân điện tử, 14/02/2013)
  37. ^ Trích dẫn theo tác giả (ca sĩ Ánh Tuyết) trong bài viết Nhạc sĩ Văn Cao: Trương Chi là tôi đấy (Báo Tuổi Trẻ Online, 07/07/2013). Chi tiết đoạn nói chuyện giữa Ánh Tuyết và Văn Cao được bà thuật lại như sau: "Tôi nhớ hoài hình ảnh ông trên căn gác 108 Yết Kiêu, Hà Nội... Hai bác cháu [chú thích: tức Văn Cao và ca sĩ Ánh Tuyết] cứ ngồi im lặng gần ba giờ sau những thắc mắc tìm hiểu của tôi về sự ra đời của bài hát Trương Chi... Rồi tôi khẽ rung lên câu hát: "Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang... Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng... Anh Trương Chi... tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Oán trách cuộc từ ly não nùng... Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta. Đàn đêm thâu, trách ai khinh nghèo quên nhau...". Văn Cao vẫn lặng im. Bất chợt ông nói gọn mấy từ như nói với chính mình mà cũng vừa đủ cho tôi nghe: "Trương Chi là tôi đấy". Rồi ông bật một tiếng cười khan mà tôi nghe thấu lòng cái nỗi cô đơn cùng tận giăng phủ niềm đau ẩn chứa trong sự im lặng, đã gói gọn số phận đời ông qua hình dáng chàng Trương Chi."
  38. ^ Võ Thị Xuân Hà, Người con đồng bệnh tương liêu của Văn Cao. (Tạp chí Sông Hương, 12/10/2009)
  39. ^ a b Hà Minh Đức, Nhạc sĩ Văn Cao và chuyện kể bên giường bệnh. (Báo Công an nhân dân điện tử, 03/12/2013)
  40. ^ Nguyễn Nghiêm Bằng, Vài tâm sự của nhạc sĩ Văn Cao về Tiến quân ca. (Báo điện tử Tiền Phong, 17/08/2005). Chú thích: Nghiêm Bằng là một trong 3 người con trai của Văn Cao.
  41. ^ Đặng Tiến, Văn Cao, tiếng hát Lưu trữ 2018-05-29 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 26/7/2015). Trích dẫn ý kiến của Phạm Duy: "Phải đợi cho tới khi tân nhạc ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Dzoãn Mẫntung ra (). Tuy nhiên, loại nhạc tình lãng mạn đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được phát xuất ra từ một con người tài hoa bật nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao."
  42. ^ Dân Huyền, Nhạc sĩ Văn Cao và những sáng tác về đề tài cách mạng. (Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam - VOV.vn, 02/09/2016). Trích dẫn ý kiến của tác giả bài viết, nhạc sĩ Dân Huyền: "Trong dòng âm nhạc cách mạng, Văn Cao là người đầu tiên chắp những đôi cánh lãng mạn, những ước mơ lớn vào các ca khúc, hành khúc chiến đấu. (...) Từ năm 1944 đến năm 1946 là một bước ngoặt lớn, một bước phát triển nhảy vọt của Văn Cao. Từ dòng lãng mạn lành mạnh yêu nước hùng tráng, Văn Cao chuyển ngay sang dòng âm nhạc cách mạng, chuyển ngay sang dòng thác dữ dội của cách mạng giải phóng dân tộc. Chuyển một cách mau lẹ, tự nhiên, vững chắc, không qua một giai đoạn quá độ, không qua một giai đoạn mò mẫm "nhận đường". (...) Với "Tiến quân ca", lần đầu tiên Quân giải phóng Việt Nam chính thức có một hành khúc hùng tráng, trang nghiêm và lôi cuốn. Với "Tiến quân ca", lần đầu tiên toàn thể các tầng lớp nhân dân Việt Nam có chung một hành khúc trên đường ra trận. Trước đó, chúng ta chỉ có những nhạc phẩm yêu nước của tuổi trẻ thủ đô, của thanh niên, học sinh, sinh viên và hướng đạo sinh. "Tiến quân ca" là cái mốc bằng vàng đánh dấu sự toàn thắng của âm nhạc cách mạng về cả tư tưởng lẫn về nghệ thuật."
  43. ^ Nhạc sĩ kiêm nhà nghiên cứu âm nhạc Phạm Duy từng viết về vai trò của Văn Cao trong việc khai phá thể loại trường ca trong âm nhạc hiện đại Việt Nam như sau: "Văn Cao là người đẻ ra trường ca, còn tôi chỉ là người thừa kế. Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung. Sự dài hơi trong những câu nhạc trong bài chứng tỏ nhạc sĩ Văn Cao đã trưởng thành ngay từ lúc tân nhạc vừa mới ra đời." Hay "Trường ca sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc Việt Nam."
  44. ^ Thiên Sơn, Nhà thơ Văn Cao, còn những tiếng rạn vỡ Lưu trữ 2017-09-01 tại Wayback Machine. (Trang điện tử Hội nhà văn Hải Phòng, 23/11/2013)
  45. ^ Vũ Nho, Văn Cao, một lối thơ riêng Lưu trữ 2017-09-01 tại Wayback Machine. (Tạp chí văn nghệ quân đội, 17/03/2014)
  46. ^ Lê Thiếu Nhơn, Văn Cao trong cõi thơ. (Báo Công an nhân dân điện tử, 27/06/2017)
  47. ^ a b Trần Thiện Khanh, Đối thoại về trường ca và trường ca Việt Nam hiện đại. (Báo điện tử Tổ Quốc, 23/06/2009)
  48. ^ Lê Thiếu Nhơn, Văn Cao trong cõi thơ. (Báo Công an nhân dân điện tử, 27/06/2017). Trích dẫn tác giả: "Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định "có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình" để mường tượng hòa bình đích thực "chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất" và nghe được những va đập mỏng mảnh "tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen". (...) Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca "Những người trên cửa biển" đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỷ XX, bởi tình yêu mảnh đất "mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi" đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại "cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy"."
  49. ^ Khuất Bình Nguyên, Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc Lưu trữ 2020-02-17 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 19/10/2013). Trích dẫn tác giả: "Những người trên cửa biển mở đầu cho vụ mùa thu hoạch trường ca của thi ca Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Đặc biệt trong và sau những năm chống Mỹ cứu nước, thơ Việt Nam đi đến một tầm vóc mới ở sự ra quân rầm rộ của nhiều bản trường ca."
  50. ^ Khuất Bình Nguyên, Trường ca nửa sau thế kỷ XX Lưu trữ 2018-03-20 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 9/1/2016)
  51. ^ Đỗ Quyên, Đến sự hiện đại hóa thơ Việt từ trường phái trường ca Việt[liên kết hỏng]. (Báo Văn nghệ Thái Nguyên, 06/06/2017). Trích dẫn tác giả: "...Hiện tượng trường ca Việt Nam có vùng hoạt động trong vòng 40 năm 1960-2000: thời điểm lịch sử 1975 ở quãng giữa với khoảng 15 năm trước và 20 năm sau đó. (...) Dấu mốc 1960 có được do chúng tôi chọn 3 điểm khởi phát của hiện tượng trường ca Việt Nam; đó là tác giả Văn Cao với tác phẩm Những người trên cửa biển - 1956; Hoàng Cầm, Tiếng hát người quan họ - 1956; và Thu Bồn, Bài ca chim Chơ Rao - 1962."
  52. ^ Nguyễn Nguyệt, Hội họa Văn Cao. (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 320, tháng 2-2011)
  53. ^ Trần Khánh Chương, Kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao (1923-2013): Có một họa sĩ tài ba, Văn Cao Lưu trữ 2017-09-22 tại Wayback Machine. (Trang điện tử của Hội Mỹ thuật Việt Nam, 2013)
  54. ^ Đỗ Thu Hà, Chất hội họa trong thơ Văn Cao. (Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội)
  55. ^ Khuất Bình Nguyên, Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc Lưu trữ 2020-02-17 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 19/10/2013)
  56. ^ a b Hồ Bất Khuất, Văn Cao Nhân vật văn hóa năm 2013 Lưu trữ 2018-01-03 tại Wayback Machine. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 24/1/2014)
  57. ^ Đào Quang (Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Nam Định), Lừng danh người nghệ sỹ. (Trang điện tử của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái, 24/05/2016)
  58. ^ Nhắc đến tài năng mang tính sáng tạo trong nhiều lĩnh vực của Văn Cao, người ta vẫn thường dùng những mỹ từ như "tài hoa", "đa tài", và thậm chí "thiên tài".
  59. ^ "Tai" ở đây dùng với nghĩa là "tai ương", "tai nạn".
  60. ^ Nguyễn Thụy Kha, VĂN CAO - "Ông hoàng âm nhạc"; Tính dự báo và "Việt hóa" âm nhạc Tây là những đóng góp lớn của Văn Cao. (BÁO NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐIỆN TỬ, 09/09/2017)
  61. ^ Tân Linh, Hát Tiến về Hà Nội, nhớ Văn Cao. (Báo An ninh Thủ đô điện tử, 16/09/2014)
  62. ^ Trong bài viết Văn Cao, dòng sông ba nhánh sương mù
  63. ^ a b Trích dẫn theo tác giả Đỗ Ngọc Thạch trong bài viết "Văn Cao - Dòng suối mơ không vơi cạn...".
  64. ^ Nguyễn Thị Ngọc Hà, Tản mạn văn, nhạc, họa. (Tạp chí văn nghệ quân đội, 08/02/2016)
  65. ^ Văn Cao - Người cô đơn giữa cuộc đời (Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh, 5/7/2015)
  66. ^ a b Trích dẫn lời của họa sĩ Văn Thao (con trai cả của Văn Cao) trong cuộc trò chuyện giữa ông với nhà văn Võ Thị Xuân Hà, trong bài viết Người con đồng bệnh tương liêu của Văn Cao (Tạp chí Sông Hương, 12/10/2009).
  67. ^ Đặng Tiến, Văn Cao, tiếng hát. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 26/7/2015)
  68. ^ Nghe Phạm Duy tâm tình về Văn Cao (VnExpress, 6/10/2008)
  69. ^ Trương Quang Lục, Vài kỷ niệm khó quên về nhạc sĩ Văn Cao. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao. (Báo Sài Gòn Giải Phóng, 17/11/2013)
  70. ^ Trích dẫn theo tác giả Khánh Nguyễn trong bài viết Nhạc sĩ Dương Thụ: Sự xuất hiện của Phạm Duy là một tất nhiên (Báo Thể thao & Văn hóa Cuối tuần, 09/02/2013).
  71. ^ a b Đỗ Hồng Quân, Nhạc sĩ Văn Cao: Từ "Buồn tàn thu" đến "Mùa xuân đầu tiên", cuộc hành trình của một tài năng lớn!. (Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, 04/02/2014)
  72. ^ Dân Huyền, Nhạc sĩ Văn Cao và những sáng tác về đề tài cách mạng. (Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam - VOV.vn, 02/09/2016)
  73. ^ Trích dẫn theo tác giả (ca sĩ Ánh Tuyết) trong bài viết Nhạc sĩ Văn Cao: Trương Chi là tôi đấy (Báo Tuổi Trẻ Online, 07/07/2013).
  74. ^ Thùy Dương, Văn Cao - Người đi dọc biển. (Báo An ninh Thủ đô điện tử, 23/07/2011)
  75. ^ Một nhà nghiên cứu không chuyên về nhạc Trịnh, Frank Gerke mang quốc tịch Đức. Trích dẫn theo tác giả Trần Đăng Khoa trong bài viết Tháng Tư rồi, nhớ Trịnh Công Sơn (Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam - VOV.vn, 01/04/2012).
  76. ^ Trích dẫn theo tác giả Phương Thúy trong bài viết Văn Cao - một gương mặt thơ cách tân (Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam - VOV.vn, 30/12/2013).
  77. ^ Trích dẫn theo tác giả Thanh Thảo trong bài viết Nhân 80 năm ngày sinh Văn Cao: Thời gian cô đặc trong thơ Văn Cao (Báo Bình Định điện tử, 14/12/2003).
  78. ^ Trích dẫn theo tác giả Đặng Anh Đào (con gái của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Đặng Thai Mai) trong bài viết Mùa xuân bí ẩn trong thơ Văn Cao (Báo Công an nhân dân điện tử, 04/01/2009).
  79. ^ Trích dẫn theo tác giả Thụy Khuê trong bài viết Nhân văn Giai phẩm - phần XIII: Văn Cao (RFI.fr, 11/04/2010).
  80. ^ Trích dẫn theo tác giả Trần Hoài Anh trong bài viết Tâm thức trôi trong thơ Văn Cao (Trang điện tử Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, 16.4.2011).
  81. ^ a b c Trích dẫn theo tác giả Thiên Sơn trong bài viết Nhà thơ Văn Cao, còn những tiếng rạn vỡ (Trang điện tử Hội nhà văn Hải Phòng, 23/11/2013).
  82. ^ a b c Trích dẫn theo tác giả Vũ Nho trong bài viết Văn Cao một lối thơ riêng (Tạp chí văn nghệ quân đội, 17/03/2014).
  83. ^ Vi Quốc Hiệp, Nhớ Văn Cao. (Tạp chí Mỹ thuật - Hội Mỹ thuật Việt Nam)
  84. ^ Đỗ Phấn, Nghề vẽ minh họa trên báo giấy. (Báo Nhân Dân, 20/06/2016)
  85. ^ Dựng tượng nhạc sĩ Văn Cao (VnExpress.net, 15/11/2002). Trích dẫn: "Chiều nay, tại khuôn viên Trung học Văn hóa nghệ thuật Hải Phòng diễn ra lễ khánh thành tượng Văn Cao. Đây là bức tượng bán thân, cao 0,7 m, nặng 100 kg đặt trên bệ đá cao 1,8 m. Tác giả là nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng, họa sĩ Văn Thao (con trai nhạc sĩ Văn Cao) và nghệ nhân đúc đồng Nguyễn Văn Dũng."
  86. ^ Nhà sử học Dương Trung Quốc: Hà Nội sẽ đẹp hơn với tượng Văn Cao (Thể thao & Văn hóa, 20/8/2016)
  87. ^ Hoạ sỹ Trần Khánh Chương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam: Nên có tượng đài cố nhạc sĩ Văn Cao đặt ở phố Văn Cao, Hà Nội (Dantri.com.vn, 12/07/2016)

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Trích dẫn liên quan tới Văn Cao tại Wikiquote
  • Phương tiện liên quan tới Văn Cao tại Wikimedia Commons
  • Văn Cao tại Từ điển bách khoa Việt Nam

[[Thể loại:Họa sĩ người Hải Phòng]