Cùng THPT Sóc Trăng tìm hiểu Văn nghị luận là gì và cách làm bài văn nghị luận đạt điểm cao. Show
Văn nghị luận là gì? Văn nghị luận (tên đầy đủ là văn nghị luận xã hội) là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống nói chung. Do đó, đề bài của dạng văn này rất rộng. Cụ thể, nó bao gồm cả những vấn đề tư tưởng, đạo lý cho đến lối sống. Ngoài ra, một đề văn nghị luận xã hội đôi khi đề cập những câu chuyện nổi bật trong cuộc sống hằng ngày. Hoặc có thể yêu cầu viết về vấn đề thiên nhiên, vấn đề toàn quốc, toàn cầu… Hiểu đơn giản hơn, văn nghị luận xã hội là dạng văn yêu cầu viết về vấn đề xã hội. Nó khác với văn nghị luận văn học, chỉ viết về tác phẩm, nhà văn… Theo các nhà giáo ưu tú chia sẻ, để viết văn nghị luận xã hội tốt, học sinh cần rèn luyện 2 kỹ năng: chứng minh và giải thích. Hiện nay, đề văn nghị luận xã hội rất phổ biến. Đây cũng là cách mà các trường, cơ sở giáo dục nói chung đưa ra để kiểm tra kỹ năng sống, vốn sống, mức độ hiểu biết của học sinh. Do đó, yêu cầu người học bên cạnh đọc sách giáo khoa thì cũng cần biết báo chí, đọc tin tức, theo dõi đời sống hằng ngày. Dựa vào khái niệm nêu ở phần 1, chúng ta có thể chia văn nghị luận xã hội thành nhiều dạng đề. Tuy nhiên, tựu trung thì có một số dạng đề cơ bản như sau. Văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống
Lưu ý với học sinh : Trong 3 loại trên thì hiện nay văn nghị luận xã hội từ một mẩu tin tức báo chí đang phổ biến hơn cả. Văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý
Hướng dẫn các bước làm bài văn nghị luận xã hộiTrong cách làm bài văn nghị luận xã hội thì 2 yêu cầu chứng minh và giải thích rất quan trọng. Do đó, loại văn này thường ít có “cảm xúc dào dạt”, thay vào đó là sự cô động, rõ ràng, rành mạch. Để làm tốt bài văn nghị luận xã hội người học cần thực hiện như các bước hướng dẫn sau. Đọc kỹ đề khi làm bài văn nghị luận xã hội
Cách lập dàn ý làm bài văn nghị luận xã hội
Dẫn chứng phù hợp trong cách làm bài văn nghị luận xã hội Bạn đang xem: Văn nghị luận là gì và cách làm bài văn nghị luận đạt điểm cao Trong cách làm bài văn nghị luận xã hội thì luôn cần dẫn chứng. Do đó người học cần lưu ý như sau.
Cách làm bài văn nghị luận xã hội chặt chẽ, súc tích Bài văn nghị luận xã hội phải chặt chẽ, cô động nhất có thể. Cụ thể phải đảm bảo 4 yếu tố sau.
Bài học nhận thức và hành động cần có trong văn nghị luận xã hội Trong cách làm bài văn nghị luận xã hội, yêu cầu cần nhất chính là rút ra bài học gì cho bản thân. Do đó, người viết cần có:
Độ dài văn nghị luận xã hội cần phù hợp với yêu cầu Thông thường khi ra đề sẽ có thêm phần yêu cầu bài viết bao nhiêu chữ. Người viết cần tuân thủ đúng yêu cầu này. Tránh viết quá dài, hoặc quá ngắn đều dẫn đến kết quả điểm không cao. Với văn nghị luận xã hội thí sinh cần viết cô đọng, súc tích và rõ ý. Ảnh: InternetHướng dẫn cách làm bài văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lýBài văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lý thường được chọn đề ra đề trong nhiều kỳ thi. Dưới đây là hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lý đúng chuẩn nhất. Cách mở bài văn nghị luận xã hội
Cách làm thân bài văn nghị luận xã hội Cách làm bài văn nghị luận xã hội ở phần thân bài cần có những luận điểm sau. Luận điểm 1: Giải thích yêu cầu đề
Luận điểm 2: Phân tích và chứng minh
Luận điểm 3: Bình luận mở rộng vấn đề
Cách viết kết bài văn nghị luận xã hội
Ở trên là cách làm bài văn nghị luận xã hội cơ bản nhất mà mỗi người học cần biết. Ngoài sườn bài này, người học cần nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng viết bằng cách đọc sách, báo chí nhiều hơn. Việc có một vốn sống tốt sẽ giúp người học viết văn nghị luận xã hội trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Mẫu dàn ý văn nghị luận xã hộiI – Mở bài -Phần mở bài cần giới thiệu, dẫn dắt vấn đề và nêu lên được tính cấp thiết của vấn đề cần đưa ra nghị luận. – Mở ra hướng giải quyết vấn đề II – Thân bài 1. Thực trạng của vấn đề cần nghị luận. – Phân tích, chia tách tư tưởng đạo lí thành các khía cạnh để xem xét, đánh giá. – Dùng lí lẽ, lập luận và dẫn chứng để chứng minh tính đúng đắn, đồng thời bác bỏ những biểu hiện sai lệch. – Khi bàn luận, đánh giá cần thận trọng, khách quan, có căn cứ vững chắc 2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. – Người viết nên tự đặt ra và trả lời các câu hỏi: Nguyên nhân nào dẫn đến các thực trạng đó? Có thể bổ sung thêm điều gì? – Người viết cần lật đi lật lại vấn đề, xem xét từ nhiều góc độ, nhiều quan hệ để đánh giá và bổ sung cho hợp lí, chính xác. – Người viết cần có bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng, cần có suy nghĩ riêng, dám đưa ra chính kiến riêng, miễn là có lí, có tinh thần xây dựng và phù hợp đạo lí. 3. Hậu quả hoặc kết quả của bài văn nghị luận. Nêu rõ thực trạng các biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống; thực tế vấn đề đang diễn ra như thế nào, gây hậu quả ra sao đối với đời sống, thái độ của xã hội đối với vấn đề. Nếu có được dẫn chứng từ thực tế, địa phương, lập luận sắc bén thì sẽ nêu bật được hậu quả của vấn đề cần nghị luận 4. Biện pháp khắc phục trong bài văn nghị luận xã hội Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng đời sống (từ nguyên nhân nảy sinh vấn đề để đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt, lâu dài. Chú ý chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp với những lực lượng nào). II – Kết bài Nêu suy nghĩ về vấn đề đã nghị luận và bài học cho bản thân. Đây chỉ là dàn ý chung giới thiệu các bước làm bài văn nghị luận xã hội để có được một bài văn nghị luận xã hội tốt. Thực tế, để có được phương pháp học tốt thì dù là nghị luận về một hiện tượng đời sống hay về một tư tưởng thì không phải lúc nào cũng có đủ các luận điểm đã nêu, vì còn tùy thuộc vào kỹ năng làm bài thi môn văn của từng bạn. Cách sắp xếp luận điểm cũng cần linh hoạt, tùy theo đề và mục đích nhấn mạnh của người viết, đó mới là cách học hiệu quả. Chúng ta vẫn quan niệm văn chương là phải trau chuốt, bay bổng. Nhưng bạn thử nghĩ xem, nếu đọc một bài văn ngôn từ hoa mỹ diễm lệ nhưng rốt cuộc bạn chẳng thể hiểu được người viết đang muốn trình bày điều gì, thì bạn còn muốn đọc tiếp không? Đúng vậy, mọi nỗ lực luyện câu sắp chữ chỉ là vô nghĩa nếu người đọc không nhận được thông điệp mà ta gửi gắm. Nếu thiếu đi sự rõ ràng, chặt chẽ thì mọi câu từ trau chuốt chắc khác gì một tòa nhà đồ sộ thiếu đi nền móng vững chắc, sẽ sụp đổ. Vậy làm thế nào để có được một bài văn nghị luận rõ ràng, thuyết phục?Nguyên tắc 1: Hiểu thật rõ những gì mình viết“Nếu bạn không thể giải thích cho đứa trẻ sáu tuổi hiểu được, thì chính bạn cũng không hiểu gì cả” – nhà bác học lừng lẫy thế giới Albert Einstein đã nói như vậy. Einstein rõ ràng không muốn chúng ta biến mọi đứa trẻ sáu tuổi thành bác học, mà ý ông nói rằng nếu ta thực sự nắm bản chất vấn đề, ta sẽ có được cách diễn giải rõ ràng và dễ hiểu. Để thuyết phục người khác, bạn phải hiểu rõ ngọn ngành vấn đề mà mình trình bày. Để làm được điều này, bạn phải quản lý tri thức theo hai cấp độ: cấp độ tổng thể và cấp độ chi tiết.
2 Mối quan hệ chiều ngang và chiều dọc của hệ thống chủ đề trong một tác phẩm Trên cơ sở nắm được mối liên hệ giữa các đơn vị lý thuyết, bạn mới có thể dễ dàng vận dụng thao tác so sánh, phân tích để làm sáng tỏ vấn đề. Phân tầng tri thức theo nhiều cấp độ sẽ giúp bạn lựa chọn được điều gì cần phải nói, và chọn được cách nói dễ hiểu nhất đối với những đối tượng người đọc khác nhau. Hãy nhớ điều này: Chỉ biết thôi thì chưa phải là hiểu, nắm vững mối liên hệ mới thực sự là hiểu. Ở cấp độ chi tiết, bạn cần phải nắm được những điểm quan trọng nhất, những điểm ấn tượng nhất trong vấn đề mà bạn đang trình bày. Một số câu hỏi có thể đặt ra:
Những chi tiết này sẽ là điểm sáng trong bài viết, nó là căn cứ để bạn khơi sâu vấn đề mình đang trình bày và tạo sự thuyết phục trong bài viết. Hãy tập thói quen sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa lại những đơn vị kiến thức cần nắm. Đồng thời, khi tìm hiểu tri thức, nên có thói quen ghi chép lại những điểm ấn tượng nhất, quan trọng nhất, trọng tâm nhất. Nguyên tắc 2: Quản lý bố cục bài viếtBố cục của bài văn nghị luận bao giờ cũng là một hệ thống các ý được sắp xếp theo tầng bậc rõ ràng và có mối liên hệ chặt chẽ giữa các phần. 3-Bố cục các ý trong một bài văn nghị luận Qua sơ đồ trên, ta thấy: Bài văn nghị luận không có nội dung thừa. Mọi lí lẽ, dẫn chứng đều nhằm mục đích làm sáng tỏ luận điểm. Mọi luận điểm đều nhằm mục đích làm sáng tỏ luận đề. Đây là điều bạn phải luôn luôn nhớ như in trong đầu mình khi triển khai vấn đề nghị luận. Hãy luôn tự hỏi mình: Tôi viết vấn đề này để làm gì? Những điều tôi đang viết phục vụ như thế nào đến việc làm sáng tỏ luận đề? Sáng tỏ và thuyết phục – hai thần chú này luôn phải được niệm đi niệm lại. Như vậy, tất cả các phần tạo ấn tượng cho bài viết chỉ thực sự có giá trị khi đặt trong tổng thể này. Trước bạn phải đặt những gì mình viết vào tổng thể bài viết và đảm bảo rằng nó thuyết phục, dễ hiểu. Sau đó mới sử dụng các tuyệt chiêu gây ấn tượng để chúng cuốn hút hơn. Nguyên tắc 3: Bám sát luận đềTrong bài văn nghị luận, luận đề chính là dòng sông lớn mà tất cả lí lẽ, dẫn chứng, cách hành văn đều là những dòng suối nhỏ đổ về đó. Mục đích cuối cùng là chảy ra biển lớn – tâm trí bạn đọc nhằm thuyết phục họ. Như vậy, bạn có thể dễ dàng hình dung rằng: Tất cả mọi yếu tố trong bài văn nghị luận đều hướng về làm sáng tỏ luận đề. Như vậy, luận đề luôn cần phải được nhắc đi nhắc lại trong bài nghị luận của bạn. 4-Tất cả các yếu tố trong bài nghị luận đều hướng về luận đề Mục đích cuối cùng của bài văn nghị luận là làm sáng tỏ luận đề, là nhằm mục đích thuyết phục người đọc về luận đề bạn đang trình bày. Như vậy, trong suốt bài viết của mình, bạn phải liên tục tự nhắc mình về luận đề, cũng là mục đích viết, và phải nhắc độc giả về luận đề, tức là mục đích họ đọc. Bạn có thể nhắc lại luận đề trong bài văn nghị luận của mình bằng cách:
Chú ý, việc nhắc lại vấn đề nghị luận không phải là cứ sao chép vô tội vạ từ khóa đề bài, cũng không phải cứ trích một cách máy móc nhận định trích trong đề bài. Quan trọng là phải chỉ ra được luận đề đã được triển khai như thế nào, được làm sáng tỏ như thế nào. Nguyên tắc 4: Lập luận cần đủ tiền đề và kết luậnTác giả Athony Weston, trong cuốn sách “A Rulebook for Argument” (Các thủ thuật để thành công trong tranh luận, bộ sách “Viết gì cũng đúng”, Alphabooks phát hành) đã đưa ra định nghĩa về tiền đề và kết luận như sau: “Hãy nhớ rằng kết luận là lời phát biểu mà bạn phải đưa ra lý lẽ để chứng minh. Những lý lẽ mà bạn đưa ra dưới hình thức phát biểu gọi là tiền đề” Hãy xem một số ví dụ sau: Ví dụ 1: Sống hết mình cho hiện tại Sống hết mình trong hiện tại, “cháy vèo trong gió” giúp bản thân mỗi người phát hiện và phát huy được năng lực tiềm ẩn, thỏa sức sáng tạo, cảm nhận được bao điều kì diệu trong cuộc sống. Con người với hoài bão, ý chí, không ngại khó khăn, sẵn sàng theo đuổi ước mơ của mình để đạt được thành công. Đặc biệt, những người sống hết khả năng luôn được mọi người yêu mến bởi họ đã gieo vào chúng ta ánh sáng hy vọng, tiếp thêm cho chúng ta động lực vững vàng để đối diện với nghịch cảnh trong đời. Chắc hẳn, mỗi chúng ta đã hơn một lần thán phục chàng trai Nick Vujicic – biểu tượng của sức sống mãnh liệt. Nick sinh ra không may mắn bị khuyết tứ chi, song không vì thế mà anh tuyệt vọng. Với lòng dũng cảm, tài năng, nghị lực phi thường, anh đã trở thành nhà diễn thuyết truyền động lực sống đến mọi người. Nick nói: “Tôi là một điều kì diệu. Bạn cũng là một điều kì diệu”. Điều kì diệu ấy có được chính là vì trong từng khoảnh khắc hiện tại anh đều tỏa sáng hết mình, dù cuộc đời còn nhiều đắng cay, đau khổ. (Trần Thị Thu Thảo).
Ví dụ 2: Nếu thiếu đi thơ ca, tâm hồn người nghệ sĩ sẽ vô cùng trống vắng. Mặt khác, sức mạnh kì diệu và quảng đại của thơ cả có thể vươn tới hoàn thành nhiệm vụ của những môn nghệ thuật khác. “Thơ là thơ, là nhạc, là họa, là chạm khắc…”. Tính nhạc, họa, điêu khắc trong thơ không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng luôn hiển hiện, đòi hỏi một khả năng cảm thụ tuyệt vời. Đến với thơ, người nghệ sĩ có cơ hội hòa quyện với niềm say mệ của toàn vẹn nghệ thuật, làm thơ mà như sáng tác nhạc, như điêu khắc, vẽ tranh. Điều kì diệu ấy nếu mất đi sẽ làm cho người nghệ sĩ trống vắng đến nhường nào? Nhà thơ Quang dũng là người nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc. Và tất cả tài hoa ấy hội tụ trong thơ ông: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai pha luông mưa xa khơi” (Tây Tiến) Hai câu thơ miêu tả bức tranh dữ dội, hoang sơ mà nên thơ, lãng mạn của vùng núi Tây Bắc. Phép đối ở câu thơ thứ nhất như bẻ đôi nhịp thơ, đẩy hai về về hai hướng đối lập: Cao và sâu. Cao vời vợi, sâu thăm thẳm. Cái hay ở đây tác giả đã dùng cái cao để nói cái sâu, dùng cái sâu khôn cùng để tả cái cao vô tận. Đó là chất thơ của ngôn ngữ tạo hình giàu tính biểu cảm. Chất thơ ấy còn hòa quyện trong chất nhạc. Như Xuân Diệu từng nhận xét: “Đọc thơ Quang Dũng như ngậm nhạc trong miệng”. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” với thanh bằng tuyệt đối đã hài hòa âm điệu, tiết tấu với câu thơ gân guốc, hiểm trở ở trên, tạo nên sự hòa quyện uyển chuyển, tưởng như đối nhau chan chát mà lại hòa hợp, gợi cảm, giàu sức hút. Người đọc như đang nghe một giai điệu thu hút giàu tiết tâu khi đang ngắm nhìn, tĩnh tâm nơi khoảng lặng của một bức tranh thủy rmặc nhòa đi trong màn mưa của cơn “mưa xa khơi”. Hình ảnh những ngôi nhà xa xa nhòa đi trong màn mưa xa ngái, mờ ảo còn chất chứa nỗi niềm về quê hương, gia đình của những người lính Tây Tiến trên đường hành quân gian khổ. Ta bắt gặp một ánh nhìn bình yên… Như vậy, nhờ thơ ca, nhà thơ Quang Dũng đã bộc lộ hết tài hoa và xúc cảm cũg như tâm sự sâu kín, nỗi nhớ cồn cào trong mình. Nếu không có thơ ca thì sao? Ông vẫn có thể vẽ, vẫn có thể sáng tác nhạc. Nhưng liệu những gam màu có thay thế được cái sâu khôn cùng ẩn chứa trong những con chữ mà sức diễn đạt là vô hạn? Và liệu những giai điệu kia vừa có thể giàu tính tạo hình lại vừa có thể trĩu nặng cảm xúc, như thơ? Với Quang Dũng nói riêng và các thi sĩ nói chung, thơ là không thể thay thế. Với tư cách là nhà sáng tạo mà khả năng sáng tạo luôn thôi thúc, luôn sôi sục, nếu thơ mất đi thì những thi sĩ sẽ rơi vào bế tắc,như một kẻ bị giam cầm trong ngục tối mà không thấy ánh sáng, như tâm hồn sống cuộc đời thực vật. Nỗi mất mát ấy chẳng phải cũng đau đớn như “mồ côi” sao?
Như vậy, trong bất kì phần triển khai luận điểm nào trong bài nghị luận, hai yếu tố tiền đề và kết luận luôn phải gắn chặt với nhau. Người đọc sẽ ngay lập tức hỏi “Tại sao” khi bạn trình bày kết luận mà thiếu đi dẫn chứng. Và họ sẽ hỏi bạn: “Thì sao” nếu chỉ nêu tiền đề mà chẳng dẫn tới kết luận nào cả. Hãy tự hỏi mình như vậy: Tại sao tôi có thể nói điều này? Tôi nói những điều này rồi thì sao? Hai câu hỏi này sẽ giúp bạn kiểm tra xem lập luận của mình đã đủ tiền đề và kết luận hay chưa. Nguyên tắc 5: Viết để thuyết phục người đọc, không phải để thỏa mãn cái tôiCông bằng mà nói, chẳng ai có nghĩa vụ phải đọc hết những gì bạn viết ra. Người đọc luôn có quyền lựa chọn. Thống kê chỉ ra rằng trên Facebook người ta chỉ mất 4 s để quyết định xem có muốn đọc một bài viết hay không. Cuộc sống càng hối hả người ta càng vội vã, độ kiên nhẫn của người đọc giảm dần qua từng cái cuộn chuột trên bài viết của bạn. Vậy bạn nghĩ xem, ai muốn đọc một bài viết chỉ thao thao bất tuyệt về một cái tôi nào đó chẳng dính dáng đến mình? Ngay từ định nghĩa, văn nghị luận đã không phải chỉ hướng về người viết. Nghị luận là thuyết phục ai đó về một quan điểm nào đó. Yếu tố người đọc được đặt ra từ trong định nghĩa. Bài viết của bạn chỉ có sự thuyết phục khi bạn hướng đến người đọc và trong đầu bạn luôn rõ ràng một mục đích tối thượng: Thuyết phục người đó. Joe Vitale trong tác phẩm nổi tiếng “Thôi miên bằng ngôn từ” đã gợi ý một cách viết tuyệt vời để tạo sự thuyết phục. Ông khuyên các nhà viết quảng cáo hãy viết bài dưới dạng một lá thư, hình dung một người nhận cụ thể và viết thật chân thành để thuyết phục người đọc mua sản phẩm. Sau khi lá thư hoàn thành, biên tập thật cẩn thận, xóa đi các dấu hiệu hình thức lá thư, biên tập lại thêm nhiều lần nữa, và ta có một bài viết hoàn hảo. Joe gọi đây là “bí quyết triệu đô”. Đôi khi bạn không có đủ thời gian để làm tất cả các thao tác đó cho bài văn nghị luận của mình, nhưng bạn vẫn có thể rút ra bài học từ đó: Hãy hình dung về một người cụ thể trong quá trình viết. Và hãy viết để thuyết phục người đó. Thao tác này sẽ giúp cho quá trình viết của bạn có một định hướng rõ ràng hơn và các lập luận chặt chẽ hơn. Bạn sẽ không quên luận đề và mục đích làm sáng rõ luận đề. Khi đó, cảm xúc của bài viết cũng tự nhiên và chân thực hơn. Ngoài ra, hãy thử tự hỏi mình xem bạn thích đọc một bài viết như thế nào, người đọc thích đọc một bài viết như thế nào? Sau đây là một số điều cần lưu ý:
Đăng bởi: THPT Sóc Trăng Chuyên mục: Giáo dục Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận! Nguồn chia sẻ: Trường THPT Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn) |