Gần xa nô nức yến anh nghĩa là gì

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:

Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

a.Xác định ít nhất 02 từ láy trong đoạn trích trên. b.Từ “giai nhân” là từ mượn của tiếng nước nào? Giải thích nghĩa của từ “Giai nhân”?

c.Tìm các từ cùng thuộc trường từ vựng “phương tiện đi lại”?

Các câu hỏi tương tự

Dàn ý

1. Mở Bài

- Giới thiệu về Truyện Kiều và bút pháp của Nguyễn Du.
- Giới thiệu đoạn trích "Cảnh ngày xuân" cùng với bức tranh thiên nhiên.

2. Thân Bài

a. Giới thiệu vị trí của đoạn trích: Nằm ở phần đầu, sau khi giới thiệu vẻ đẹp của chị em Kiều.
b. Bốn câu đầu: Bức tranh thiên nhiên buổi sáng sớm:- Mở ra bằng cánh chim én: loài chim báo hiệu mùa xuân- "đưa thoi": gợi tả sự đông đúc, hình ảnh những cánh chim chao lượn- "Thiều quang": ánh sáng đẹp, ánh sáng của mùa xuân- Thời gian của mùa xuân đã trôi đi quá nửa "đã ngoài sáu mươi" → Sự tiếc nuối khi mùa xuân đang dần qua (so sánh với Xuân Diệu).→ Diễn tả sự chảy trôi của thời gian, mùa xuân đang qua đi.- Hình ảnh triền cỏ xanh trải dài mênh mông như đến tận chân trời.- Từ "tận": mãi đằng xa, lan ra tới mãi đường chân trời → Thảm cỏ kéo dài vô tận, không dứt → Vẻ đẹp xanh mát của mùa xuân.- Điểm trên cỏ là hình ảnh của những bông lê trắng muốt → Hai màu hòa quyện tạo nên sự sống động, đẹp đẽ vô cùng.- "trắng điểm": Đảo ngược từ để nhấn mạnh màu sắc nổi bật- "Cành lê": Chủ thể được đảo lên đầu để nhấn mạnh hình ảnh đặc sắc.→ Nghệ thuật chấm phá, dùng điểm tả diện → Vẽ lên khung cảnh xuân thanh mát, tinh khiết.

c. Bức tranh lễ hội trong dịp tết Thanh minh:

- Tám câu tiếp là hình ảnh của con người trong dịp lễ Thanh minh- Người xe nườm nượp, tất cả đều nô nức, vui tươi trong không khí của mùa xuân.

d. Bức tranh chiều tà khi chị em Kiều ra về:

- Sau khi kết thúc lễ hội, chị em Kiều ra về.- Phong cảnh hai bên bờ đều rất đẹp với dòng suối nhỏ, cây cầu cùng với màu xanh nhẹ nhàng của phong cảnh.- Nguyễn Du sử dụng một loạt từ láy "thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, thơ thẩn": gợi tả không gian xung quanh nhưng cũng gợi lên tâm trạng con người.- "Thanh thanh": Sự trầm lắng, suy tư, thanh thoát, "nao nao": con nước quanh co hay cũng là sự bồn chồn, lo lắng, không yên.→ Cảnh vật và con người đang giao hòa, gợi lên một chút bâng khuâng, lưu luyến cùng một dự cảm chẳng lành.

e. Nghệ thuật

- Bút pháp tài hoa của Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời.- Cấu tứ của đoạn trích hợp lý với ba phần: mở, diễn biến và kết.

- Các nghệ thuật được sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn: tả cảnh ngụ tình, chấm phá, ...

3. Kết Bài

- Cảm nghĩ về bức tranh mùa xuân tươi đẹp của đoạn trích.

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1:

     Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã khuất, hiện tại và quá khứ đã đồng hiện trên những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Các tài tử, giai nhân không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao ao ước về một tương lai hạnh phúc khi mùa xuân về.

      Sau khi miêu tả khung cảnh mùa xuân bằng những nét chấm phá thì Nguyễn Du dựng nên khung cảnh ngày lễ hội trong tiết Thanh minh:

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

      Ở đó có hai hoạt động chính là tảo mộ và đạp thanh. Điệp ngữ lễ là... hội là... gợi lên những cảnh hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay.

      Cảnh trẩy hội đông vui, nhộn nhịp, tưng bừng, náo nhiệt được nhà thơ miêu tả rất tinh tế:

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

      Từ ghép là danh từ như yến anh, tài tử, giai nhân cho thấy sự đông đủ vui vẻ rất nhiều người du hội.

      Từ ghép là động từ như sắm sửa, dập dìu gợi tả sự náo nhiệt rộn ràng của ngày lễ hội. Trong đám tài tử, giai nhân gần xa ấy, có ba chị em Thúy Kiều. Câu thơ chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo nhưng sâu xa hơn, đó là sự chờ mong, trông đợi đến ngày để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã sắm sửa.

      Từ ghép là tính từ như gần xa nô nức thể hiện rõ hơn tâm trạng mọi người đi hội. Nô nức, yến anh là lối ẩn dụ cho thấy người dự hội lũ lượt như chim én, chim oanh từng đàn bay liệng ríu ran.

      -> Chỉ bằng mấy câu thơ mà Nguyễn Du đã làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân vốn là một nét đẹp của nền văn hóa dân gian lâu đời của phương Đông.

      Trong tiết Thanh minh, người ta rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người thân đã khuất:

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

      Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã khuất, hiện tại và quá khứ đã đồng hiện trên những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Các tài tử, giai nhân không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao ao ước về một tương lai hạnh phúc khi mùa xuân về.

Xem thêm các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Bài tham khảo số 5

Bài tham khảo số 6

Bài tham khảo số 7

Loigiaihay.com

Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều » Hồi 02

Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du là cách phác hoạ tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với hình ảnh tâm trạng của Thuý Kiều. Cảnh ngày xuân là bức phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều, một bức tranh tươi đẹp, trong sáng, sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn, dự cảm một tương lại gần của Thuý Kiều.Bốn câu đầu với bút pháp cổ điển tác giả tả cảnh thiên nhiên theo trình tự không gian, thời gian, bút pháp chấm phá, tượng trưng ước lệ. Bốn câu mở đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa xuân.

Ngày xuân con én đưa thoi,Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân, vừa diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt qua mau, 90 ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba – Tháng cuối cùng nhưng trên bầu trời khoáng đạt cao rộng, những cánh én vẫn rộn ràng, trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân vẫn đang ở kì xung sức. Bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân ở hai câu thơ: Cỏ non, bông hoa... Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu tô điểm bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt diệu, tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống – Cỏ non, khoáng đạt, trong trẻo – xanh tận chân trời. Nhẹ nhàng thanh khiết trắng điểm một vài bông hoa. Chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ tạo sự bất ngờ, mới mẻ, khiến nét vẽ cảnh vật trở lên có hồn, tinh khôi, thanh thoát. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân thật đẹp, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất gợi. Qua bức tranh thơ đó người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, ấm áp của mùa xuân.
Thanh minh trong tiết tháng ba,Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Nguyễn Du tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân của con người. Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ tìm về bóng hình quá khứ. Đó là lễ hội truyền thống, Nguyễn Du chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự xự ở hai hoạt cảnh này. Lễ là tảo mộ, thăm viếng, sửa sang quét tước phần mộ để tưởng nhớ người thân tổ tiên đã khuất. Hộ là đạp thanh: Lễ và hội trong tiết thanh minh là sự giao hoà độc đáo giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đã qua và cái sắp tới. Chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
Dập dìu tài tử giai nhân,Ngựa xe như nước áo quần như nêmNgổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự xự tả bức tranh của lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tích từ: Gợi lên không khí lễ hội thật rộn ràng. Các danh từ như: “yến anh”, “chị em”, “tài từ”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội, các động từ “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội, các tính từ “gần xa”, “nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi hội, đồng thời cách nói ẩn dụ nô nức, yến anh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân tất bật, nhộn nhịp nhất là những nam thanh nữ tú, tài tử, giai nhân. Thông qua việc du xuân của họ, tác giả khắc hoạ một truyền thống văn hoá thật đẹp và sống động.Sáu câu thơ cuối tả khung cảnh chị em du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây,Chị em thơ thẩn đan tay ra về.Bước dần theo ngọn tiểu khê,Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Nắng nhẹ, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Đến đây không khí nhộn nhịp, dộn dàng của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần. Những từ láy: Tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái, cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, đó là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đang còn và sự linh cảm về điềm sắp xảy ra đã xuất hiện.

Mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng, trong bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến đổi theo cảnh vật, sáng – chiều, đầu khổ – cuối khổ và linh cảm tương lai đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình.