Ngửi mùi thuốc sâu có sao không

“Tuần từ ngày 15/6 - 19/6 tiếp nhận hai trường hợp dị tật thai nhi, một là thai phụ 20 tuổi thai 17 tuần nhưng vô sọ, một là bé Quách Văn D, 3 ngày tuổi đẻ non, đa dị tật. Cả hai trường hợp (một chưa sinh và một đã chào đời) đều rất đáng tiếc và không có cơ hội tiếp tục cuộc sống”. Đó là phần đầu bản tin của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình nhằm khuyến cáo việc cần làm sàng lọc trước sinh.

Bác sĩ Đinh Thị Chiên - Phó Khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình - người đã công tác trong ngành được 25 năm bảo với tôi rằng đây là lần đầu tiên siêu âm phát hiện ra trường hợp thai nhi dị dạng có 4 chân nên mới phải phá.

Thường những trường hợp thai chết lưu, dị dạng mà nhỏ thì người ta phá ở bên ngoài, chỉ to, khó xử lý mới vào bệnh viện. Theo tôi ước lượng mỗi năm số ca như vậy đến đây khoảng trên dưới 200 chưa kể các ca dọa đẻ non...

Bác sĩ Đinh Thị Chiên

Ngửi mùi thuốc sâu có sao không

Còn bác sĩ Trần Thị Vân - Phụ trách khoa thì thông tin cụ thể hơn: “Thai dị dạng, chết lưu, đẻ non có thể xử lý ở tuyến huyện, tỉnh hoặc nếu có tiền thì về trung ương để tìm nguyên nhân chứ ở đây chưa có điều kiện để tìm.

Chúng tôi chỉ nghiên cứu mối liên quan giữa thai chết lưu với những bất thường nhiễm sắc thể, với bệnh cúm chứ chưa có nghiên cứu để tìm mối liên quan với việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)  hay ô nhiễm môi trường vì hiểu biết về vấn đề này vẫn còn hạn chế.

Theo chủ quan của tôi chắc chỉ khoảng 10 - 20%, thuộc về những ca khó vượt khả năng xử lý mới được chuyển lên đây. Với những ca thai chết lưu, dị dạng, chết không rõ nguyên nhân tôi hay hỏi ở nhà có phun thuốc trừ sâu hoặc tiếp xúc với chúng hay không. Thường 10 người thì khoảng 6 trả lời rằng có”.

Ngửi mùi thuốc sâu có sao không

Chuyện ở Trung tâm Y tế huyện

Bác sĩ Nguyễn Thị Hồng - Trưởng Khoa sản, Trung tâm Y tế huyện Cao Phong thống kê 6 tháng đầu năm nay có 20 trường hợp thai chết lưu còn sảy thì không tính (thực tế khi tôi hỏi điều dưỡng Tô Thị Hương Quế phụ trách vấn đề này thì được biết là thống kê từ tháng 10/2019 đến tháng 7 năm nay - PV).

Cụ thể trong năm 2020, tháng 1 có 2 trường hợp, tháng 2 có 2 trường hợp, tháng 3 có 6 trường hợp, tháng 4 có 1 trường hợp…

“20 trường hợp này sẽ không thể sinh được trong năm nay mà phải kiêng ít nhất là 6 tháng nên tỷ lệ đẻ năm nay sẽ ít đi. Đó là chưa kể đến các trường hợp thai lưu đến phòng khám tư, vượt tuyến hay những người ở thị trấn cùng hai xã Thung Nai và Bình Thanh thường không lên đây điều trị, tổng cộng cũng ít nhất khoảng 20 trường người nữa. Các trường hợp vào đây đều có bảo hiểm y tế 100%”.

Ngửi mùi thuốc sâu có sao không

Với kinh nghiệm trên 20 năm trong nghề, bác sĩ Hồng khẳng định trong vòng khoảng 5 năm gần đây tỷ lệ thai chết lưu dưới 12 tuần tuổi gặp rất nhiều.

“Hồi trước không có mấy ca thai chết lưu đâu mà chỉ có sảy thai từ 22 tuần tuổi còn giờ là chết lưu rồi mới sảy.

Cứ ra tết tầm từ tháng 1 đến 4 có rất nhiều ca như thế đến đây, cao điểm nhất là tháng 2 và tháng 3 sau đó tháng 4, 5 bắt đầu giảm, hết tháng 5 thì ít thấy, cứ đậu thai là giữ được.

Đó cũng là trùng với thời gian thu hoạch hết cam, ăn tết xong nông dân đầu tư phun một loạt thuốc BVTV để xử lý ra hoa và đậu quả. Phụ nữ thường không tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV, có chăng là sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh.

Gia đình nào ở đây hầu như cũng có vườn. Cam bao quanh nhà. Không chỉ dân ở đây mà nhiều người ở Hà Nội cũng tìm về thuê đất, mua đất để làm những trang trại rất lớn.

Người nào không có cam thì lại đi làm thuê, thường họ không phun một loại thuốc mà kết hợp nhiều loại cùng một lúc, ngay cả cỏ mọc sát nhà cũng phun để diệt chứ không mấy khi chịu phát như trước.

Khi phun một lượng rất lớn như thế, đi trên đường thuốc xộc vào còn cảm thấy chóng mặt. Vườn cam ở đỉnh đồi này mà phun thuốc thì ngay Trung tâm chúng tôi cũng ngửi thấy mùi, không thể mở cửa được vì rất đau đầu, nhất là khoa nội gần đó. Ở Cao Phong kể cả không làm vườn nhưng không có nhà nào không tiếp xúc với thuốc sâu bởi vì mở cửa ra là thấy rồi”, bác sĩ Hồng chia sẻ.

Trước câu hỏi của tôi về có nghi ngờ chuyện phun thuốc BVTV là nguyên nhân của những dị thường về thai sản gần đây không, bác sĩ Hồng trả lời: “Chúng tôi chỉ nghĩ đến có sự trùng lặp giữa việc phun thuốc với việc sảy thai nhưng không biết nó có ảnh hưởng gì hay không vì không làm xét nghiệm”.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hồng - Trưởng Khoa sản, Trung tâm Y tế huyện Cao Phong nói về sự trùng lặp giữa việc các ca sảy thai, chết lưu nhiều trùng với mùa phun thuốc.

Những đứa trẻ dị thường và bệnh ung thư của một loạt Chủ tịch xã

Tôi xuống Hợp Phong - xã vừa mới sáp nhập từ Đông Phong, Xuân Phong và Tân Phong - một trong những vùng trồng nhiều cam của huyện Cao Phong. Tuy sáp nhập như vậy nhưng đội quân y tế của ba xã đâu vẫn ở đấy, theo dõi địa bàn cũ với trung bình hơn 2.000 nhân khẩu.

Chị Bùi Thúy Tình là nữ hộ sinh của Trạm y tế xã Đông Phong cũ, ước tính mỗi năm trên địa bàn mình quản lý có trung bình 2 - 3 ca thai chết lưu, cao điểm có khi 5 - 6 ca, riêng từ đầu năm đến nay đã có 2 ca.

B.T.N. (xin được giấu tên) ở xóm Chằng Ngoài là một trường hợp như thế. Hồi đó, nhà tuy không trồng cam nhưng chồng N. hành nghề phun thuốc thuê và hàng xóm cũng nhiều nhà có vườn, phải dùng thuốc. Chửa đã gần ngày đẻ, một buổi chị bỗng thấy đứa con trong bụng mình thôi không còn đạp nữa, siêu âm thì mới biết nó đã chết rồi…

Nhiều hộ trong xóm do không có vốn nên mới kết hợp với những ông chủ đầu tư ngoài thị trấn vào theo kiểu người góp đất, góp công người bỏ tiền, bỏ kỹ thuật rồi ăn chia 50/50. Thuốc sâu, thuốc cỏ tưới đẫm từ đỉnh đồi xuống dưới nương khiến cho các mó nước bị ô nhiễm dân không dám dùng nữa mà phải đào giếng hết lượt.

B.T.H. (xin được giấu tên) nhà ở ngay trung tâm xã khi tôi đến bụng đã to lùm lùm nhưng trước đó từng có thai 3 tháng rồi sảy không rõ nguyên nhân. Điển hình nhất là một trường hợp trong xóm ở chính quê nữ hộ sinh Tình, người này hơn 10 năm trước tiên phong trong việc trồng cam và khi mang thai chết lưu đến 3 lần. Chồng chị vốn chuyên đi phun thuốc cho công ty cam ngoài thị trấn nên học mót được ít kỹ thuật về cũng trồng một vườn cam rồi cất ngay nhà ở giữa.

Ngửi mùi thuốc sâu có sao không

Chửa đứa đầu, đứa thứ hai siêu âm thấy bất thường chị phải ra bệnh viện tỉnh đẻ nhưng vẫn không giữ được, đến đứa thứ ba thì chính tay Tình đỡ tại nhà. Một đứa bé bụng to như bụng cóc, mũi tẹt, mắt không mở được, không thấy khóc cựa quậy trong chốc lát rồi chết. Một cỗ quan tài con con được mang về thay cho bữa liên hoan mừng đón nhà có thành viên mới.

Bà mẹ trẻ kể từ đó bị trầm cảm, gần như không nói không cười khiến cho gia đình sợ quá phải chuyển nhà vào trong xóm. Lạ thay từ lúc ở nhà mới chị đẻ sòn sòn một mạch hai đứa con đều khỏe mạnh, bình thường. Chỉ cách vườn cam của chị có 1 con đường là nhà người hàng xóm, sau đó mấy năm cũng bị thai chết lưu...

Ông Bùi Quang Bệ - Chủ tịch xã Hợp Phong trầm ngâm: “Trên đồi trồng ngô họ phun thuốc trừ cỏ, dưới vườn trồng cam thì phun cả trừ cỏ lẫn trừ sâu. Theo thống kê diện tích cây có múi của xã hiện có 331ha trong đó phần nhiều là cam nhưng đa số thuộc về những ông chủ ở nơi khác, họ không trực tiếp phun thuốc sâu mà toàn thuê dân địa phương.

Vòi phun bằng máy rất mạnh, dù có đeo khẩu trang, mặc quần áo bảo hộ nhưng hơi thuốc vẫn trùm kín thân, ngay cả người đi đường còn bị ảnh hưởng.

Chẳng biết có phải do phun thuốc sâu hay không mà trong vòng 10 năm nay ung thư ở trong vùng thấy rất nhiều, cả dân lẫn cán bộ như các ông cựu Chủ tịch xã, Chủ tịch xã Đông Phong ông Bùi Đức H, xã Xuân Phong ông Bùi Ngọc Tr, xã Tân Phong ông Bùi Văn Y, xã Tây Phong ông Bùi Văn T…”.

Thực tế này rất cần có một đề tài nghiên cứu xem có mối liên hệ nào giữa chuyện phun thuốc BVTV với các ca đẻ non, thai lưu, ung thư trên địa bàn Hòa Bình hay không. Nếu có thì phải có biện pháp để bảo vệ cho người dân, hướng dẫn họ dùng thuốc một cách an toàn mà nếu không thì phải giải oan cho cây cam cũng như một số cây trồng chủ lực khác đang trở thành mũi nhọn kinh tế ở tỉnh.

Có rất nhiều loại thuốc trừ sâu, nhưng ở Việt Nam thường dùng nhất là nhóm kháng men cholinesterase gồm: phân hữu cơ carbamat.

Các loại thuốc trừ sâu trên dùng để diệt sâu bọ nhưng vì một lý do nào đó (do tiếp xúc, hít phải, uống...) thuốc vào cơ thể gây nhiễm độc làm tổn thương cơ thể do hoạt động hóa học của chất đó. Nhưng chất độc do hít và uống phải thường gặp nhất và gây nguy hiểm cho cơ thể. Vào cơ thể thuốc hấp thụ nhanh vào máu và hoà tan trong máu gây ra các triệu chứng ngộ độc rất nhanh và rất nguy hiểm. ặc biệt là nhóm phospho hữu cơ và carbamat. Nhóm này được gọi là nhóm kháng men cholinesterase trong huyết tương và hồng cầu, gây tăng acetylcholin máu. Acetylcholin là một chất dẫn truyền thần kinh.

Do việc phát triển và sử dụng các thuốc này ngày càng phổ biến, nên việc trúng độc cấp loại thuốc này ngày càng nhiều ở nước ngoài cũng như trong nước. Các chất phospho hữu cơ có thể gây ra các triệu chứng trầm trọng chết người. Do đó trúng độc phospho hữu cơ là một loại trúng độc nguy hiểm vì vậy cần  được  chẩn đoán sớm và  điều trị kịp  thời,  đúng và đầy đủ mới  tránh  được tử vong.

ở những người bị nhiễm độc mạn thường có nồng độ nhiễm độc thấp hơn người chưa từng bị ngộ độc. ở người già, phụ nữ có thai và có sẵn bệnh mạn thường bị ngộ độc nặng hơn người bình thường.

Ngộ độc thuốc trừ sâu do làm giảm men  cholinesterase  và  tăng acetylcholin trong máu gây ra các triệu chứng ngộ độc nặng dẫn đến tử vong nhanh chóng do các triệu chứng suy hô hấp, ức chế thần kinh trung ương, liệt cơ hô hấp. Clo hữu cơ chủ yếu gây độc qua đường hô hấp và tiêu hoá, tác dụng chủ yếu lên thần kinh trung ương gây hôn mê co giật, ức chế hô hấp: sau đợt có thể gây rối loạn tâm thần và run tay chân trong nhiều tháng.

Cơ chế bệnh sinh

Sự dẫn truyền qua synap:

Khi neuron bị kích thích, tế bào khử cực, xung động được dẫn truyền theo sợi trục đến mút tận cùng, tại đây xung động tạo nên một kích thích mới làm cho các túi chứa acétylcholin chuyển động Brown va vào nhau và vỡ ra để giải phóng acétylcholin. Acétylcholin đi qua khe synap đến tiếp xúc với recepter của màng sau synap (màng tế bào cơ ...), gây khử cực tại đây và gây co cơ.

ở khe synap, sau khi gây khử cực ở màng sau synap, acétylcholin bị acétylcholinestérase phân hủy thành acetat và Cholin mất tác dụng, kết thúc quá trình khử cực.

Thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ tác động thông qua cơ chế sau.

Cơ chế gián tiếp

Thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ vào cơ thể phối hợp với acetylcholinestérase thành một phức thể bền, tốc độ phân ly xem như bằng không. Do đó acetylcholinestérase mất hẳn tác dụng thủy phân acetylcholin.

Acetylcholinestérase bị bất hoạt hóa, chỉ được bù lại do sự tân tạo acetylcholinestérase, sự tái tạo này xảy ra rất chậm sau nhiều ngày, có thể hàng tuần, thậm chí hàng tháng.

Acetylcholin không được acetylcholinestérase phân huỷ do bị mất hoạt hoá, acetylcholin tích tụ lại ở những nơi bình thường được tiết ra trong trạng    thái bị kích thích cũng như trong trạng thái nghĩ đó là:

Giao thoa thực hành của toàn hệ đối giao cảm.

Giao thoa hạch giao cảm (cả trực và đối giao cảm) và tấm vận động

Giao thoa liên thần kinh trung ương

Cơ chế tác dụng trực tiếp

Trên các vị trí tiếp thụ acetylcholin. Nếu thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ nồng độ cao và tác dụng kéo dài thì có thể làm cho tấm vận động thoái hóa khó hồi phục.

Kết quả tác dụng của thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ

Do cơ chế tác dụng ức chế men cholinesterase không hồi phục, phospho hữu cơ tạo ra 3 loại tác dụng sau:

Tác dụng dạng Muscarin

Là kết quả tác dụng kích thích lên các giao thoa thực hành đối giao cảm gây ra những dấu chứng hưng phấn đối giao cảm trên các cơ trơn, các tuyến, tim... Hệ thần kinh trung ương chịu tác dụng này không đặc hiệu. (Kích thích hay ức chế)

Tác dụng dạng Nicotine

Là kết quả tác dụng trên các giao thoa hạch giao cảm và tấm vận động cơ vân trong đó quan trọng nhất là cơ hô hấp. Tác dụng nicotin có tính kích thích lúc ban đầu, kéo dài một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại làm liệt các cơ quan chịu ảnh hưởng khi sự nhiễm độc nặng và kéo dài.

Tác dụng trên thần kinh trung ương

Có tính kích thích rồi làm liệt khi cường độ và thời gian nhiễm độc tăng.

Quan trọng nhất là tác dụng trên các trung tâm sinh thực.

Tác dụng dạng Muscarin được trung hòa dễ dàng bởi atropin. Tác dụng nicotin chịu ảnh hưởng rất ít của atropin.

Tác dụng thần kinh trung ương chịu ảnh hưởng khá tốt của atropin.

Triệu chứng lâm sàng

Phần lớn các thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ đều tan mạnh trong Lipit, nên chúng được hấp thụ dễ dàng qua da và niêm mạc như niêm mạc mắt, tiêu hóa, hô hấp, chúng thường được dùng dưới dạng khí dung sau khi đã pha loãng.

Thuốc xâm nhập bằng mọi đường:

Da, niêm mạc, nhất là khi có sẵn tổn thương như dùng để xức ghẻ, bắn vào mắt, tiếp xúc da khi sử dụng thuốc

Hô hấp: như hít phải hơi thuốc khi mở bình thuốc kín, hít phải khí dung khi bơm thuốc

Tiêu hóa: do tự tử hay uống nhầm.

Sự hấp thụ bằng mọi đường kể trên rất dễ dàng, rất nhanh và hoàn toàn. Nhanh nhất là qua đường hô hấp, chậm nhất là qua da. Chúng có thể bị trung hòa phần nào bởi chất kiềm và Hypochlorite.

Trong cơ thể chúng bị thoái biến bởi các men thủy phân và oxy hóa, nhất là trong gan, nhưng sự thoái biến này rất chậm. ối với chất phospho hữu cơ đã phối hợp với acetylcholinestérase, chỉ thải dưới dạng đã thoái biến thành Paranitrophenol.

Độc tính: trong các phospho hữu cơ thì Thiophot (Parathion) có độc tính  lớn nhất, trung bình là Méthyl parathion (Wolfatox) và nhẹ hơn là Malathion.

Ví dụ: liều ngộ độc của Parathion là < 5 mg/kg thể trọng, Méthyl parathion là 5- 50  mg/kg  thể  trọng,  Malathion  là  50-500  mg/kg  thể  trọng.  Độc  tính  này  tăng gấp lên hàng chục lần khi hai thứ thuốc được phối hợp với nhau.

Mắt

Có dấu Muscarine rõ nhất, sung huyết kết mạc, teo đồng tử có thể rất mạnh bằng đầu kim găm, nhưng vẫn còn đáp ứng với ánh sáng, hỗn loạn điều tiết, giảm áp lực nội nhãn. Dấu teo đồng tử là dấu Muscarine rất nhạy nên có thể là một trong những dấu để đánh giá độ trầm trọng lúc ban đầu, trừ trường hợp mắt bị tác dụng trực tiếp của trừ sâu do thuốc bắn trực tiếp vào mắt thì dấu này sớm và nặng nhưng có thể dấu nhiễm độc toàn thân không nặng.

Da

Cũng là nơi biểu hiện dấu dạng Muscarine rõ, sung huyết, chảy mồ hôi.

Tiêu hóa

Dấu chứng dạng Muscarine là chủ yếu. Tiết nước bọt rất nhiều, tăng tiết dịch tiêu hóa nhất là dịch dạ dày, tăng nhu động, co thắt gây đau quặn bụng, khó nuốt, buồn nôn, nôn. Nếu trúng độc trầm trọng có ảnh hưởng đến thần kinh trung ương thì có dấu đại tiện vô ý thức.

Dấu hô hấp

Biểu hiện 3 loại tác dụng: Muscarine, Nicotine, thần kinh trung ương.

Tác dụng Muscarine làm tăng tiết dịch phế quản gây ho, tăng tiết đàm dãi, bít phế quản gây khó thở, nghe ran nổ ướt to nhỏ hạt, đồng thời làm co thắt cơ trơn phế quản gây khó thở thêm.

Tác dụng Nicotine giai đoạn làm liệt sẽ làm liệt cơ hô hấp gây suy hô hấp nặng. Tác dụng này cũng làm nhũn lưỡi gây bít đường hô hấp.

Tác dụng thần kinh trung ương giai đoạn liệt sẽ làm liệt trung tâm hô hấp, tăng các tác dụng nói trên.

Suy hô hấp cấp, biểu hiện tất nhiên của trúng độc nặng, nguyên nhân tử vong chính

Dấu tuần hoàn

Cũng biểu hiện phối hợp 3 loại tác dụng.

Tác dụng Muscarine làm mạch chậm, huyết áp hạ.

Tác dụng Nicotine và thần kinh trung ương: gây cường trực giao cảm và kích thích các trung tâm điều hòa tim mạch, ít nhất là trong giai đoạn kích thích đưa đến mạch nhanh, huyết áp cao. Trong giai đoạn liệt của tác dụng Nicotine, thần kinh trung ương, các dấu chứng có thể ngược chiều trở lại đó là trụy tim mạch.

Dấu cơ vân

Biểu hiện tác dụng nicotin và thần kinh trung ương.

Giai đoạn kích thích: rung cơ, thật sự là rung các thớ cơ là một dấu chứng quan trọng cho biết trúng độc khá trầm trọng, cần tìm kỹ để phát hiện nhất là cơ ngực, bụng, cánh tay, vai và đùi. Cần phân biệt với rung cơ vì lạnh.

Giai đoạn liệt cơ: yếu cơ rồi đến liệt cơ, quan trọng nhất là cơ hô hấp.

Nếu trúng độc kéo dài, làm tấm vận động bị thoái hóa thì liệt cơ sẽ kéo dài rất lâu.

Dấu thần kinh trung ương

Biểu hiện do cả 3 loại tác dụng:

Muscarine và nicotin gây thiếu oxy não, và tác dụng thần kinh trung ương trực tiếp của phospho hữu cơ.

Trong giai đoạn đầu là kích thích, bất an, co giật.

Trong giai đoạn cuối, giảm phản xạ gân xương, rồi mất phản xạ, hôn mê, liệt các trung tâm thần kinh sinh thực.

Sốt có thể xảy ra do chứng nhiễm độc thần kinh trung ương của phospho hữu cơ.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Căn cứ vào hỏi bệnh, hỏi thân nhân bệnh nhân nhất là dựa vào mùi hôi

đặc biệt của thuốc trừ sâu trong hơi thở, trong chất mửa, trên áo quần, da bệnh nhân, dựa vào các dấu chứng lâm sàng đặc hiệu, nhất là dấu Muscarine có phối hợp hay không với dấu nicotin và thần kinh trung ương.

Cận lâm sàng cần cho những trường hợp nhẹ, không rõ loại ngộ độc bằng cách định lượng butyrocholinestérase trong huyết tương hay acetylcholinestérase trong hồng huyết cầu. Thật ra, sự giảm hai tỉ  lệ  này không phản ánh trung  thực, mà tỷ lệ acetylcholinestérase trong các mô là tỷ lệ quyết định độ trầm trọng của sự trúng độc.

Tỉ lệ cholinesterase giảm dưới 30% là ngộ độc  nhẹ.

Tỉ lệ cholinesterase giảm dưới 50% là ngộ độc vừa.

Tỉ lệ cholinesterase giảm trên 70% là nặng.

Chẩn đoán độ trầm trọng

Dựa vào hỏi bệnh

Thể trạng bệnh nhân.

Đường nhiễm độc, nặng nhất là đường uống và bụng đói.

Lượng thuốc đã xâm nhập cơ thể.

Điều kiện trúng độc (tự độc, hay ngộ độc)

Thời gian từ lúc nhiễm độc đến lúc được loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể (súc dạ dày) và được điều trị đúng mức.

Điều trị tuyến dưới tốt hay không

Nói tóm lại, tất cả những điều kiện nào làm cho lượng thuốc ngấm vào cơ thể càng nhiều, điều trị đúng mức càng chậm, càng làm tăng độ trầm trọng.

Chẩn đoán độ trầm trọng còn căn cứ vào dấu lâm sàng, các dấu Nicotine và thần kinh trung ương nặng thì độ trầm trọng càng cao.

Sự giảm tỷ acetylcholinesterase không phản ánh hoàn toàn trung thực độ trầm trọng của trúng độc.

Hỏi bệnh nhân và khám lâm sàng kỹ có thể ước tính độ trầm trọng khá

đúng đắn.

Dựa vào các dấu hiệu lâm sàng

Mức độ nhẹ: dấu Muscarine nhẹ hay đơn thuần.

Mức độ vừa: dấu Muscarine nặng kết hợp với dấu nicotin và dấu thần kinh trung ương vừa.

Mức độ nặng: dấu nicotin và thần kinh trung ương nặng, dấu Muscarine có thể có hay không. Hoặc dấu trúng độc vừa kết hợp với yếu tố nặng do hỏi bệnh.

Tiến triển

Không điều trị

Có thể tự lành nếu trúng độc nhẹ.

Nếu là trúng độc khá nặng thì các dấu chứng sẽ tăng dần đưa đến hôn mê, suy hô hấp và có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề.

Có điều trị đúng mức

Các dấu Muscarine giảm và biến mất trước, sau đó hai dấu chứng Nicotine và thần kinh trung ương cũng thuyên giảm dần. Nhưng nếu trúng độc quá trầm trọng hay điều trị chậm, thì ban đầu các dấu chứng Muscarine giảm, bệnh nhân có thể tỉnh lại, nhưng sau đó các dấu Nicotine và thần kinh trung ương ngày càng nặng và đưa đến suy hô hấp và tử vong. Nguyên nhân tử vong chính là suy hô hấp trong hầu hết các trường hợp.

Xử trí

Loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể bằng mọi biện pháp

Tắm rửa gội đầu thay quần áo.

Rửa dạ dày (nếu do thuốc uống) nhiều lần, nhiều nước có pha muối. Sau rửa dạ dày bơm than hoạt vào, cần cho thêm nhuận tràng.

Truyền dịch cho lợi tiểu.

Hồi sức

Bằng biện pháp hút đàm và dịch qua miệng hoặc nội khí quản.

Để bệnh nhân ở tư thế dẫn lưu tốt, cho thở oxy và hô hấp hỗ trợ (nếu cần).

Thuốc kháng độc và kháng triệu chứng

Atropin sulfat: là loại thuốc chống lại các tác dụng của muscarin.

Atropin làm giãn đồng tử, khô dịch ở phế quản, làm hồng và ấm da, mạch nhanh. Vì vậy atropin là thuốc chính điều trị ngộ độc thuốc trừ sâu loại phospho hữu cơ và carbamat.

P.A.M (pyridinealdoxime methylchloride): là một chất đối kháng hoá học với phospho hữu cơ, P.A.M giải phóng và phục hồi lại men cholinesterase trong máu đã bị phospho hữu cơ ức chế.

Loại bỏ chất độc đã được hấp thu qua đường thận bằng thuốc lợi tiểu: sử dụng dịch truyền và thuốc lợi tiểu qua đường tĩnh mạch.

Dinh dưỡng và chống bội nhiễm:

Dinh dưỡng: đầy đủ năng lượng 2000-3000 calo và giàu vitamin.

Vệ sinh thân thể, tắm gội và thay quần áo phòng thuốc ngấm qua da.

Cho kháng sinh nếu: sốt, đàm đặc trắng, viêm nhiễm ở phổi, bàng quang.

Phòng nhiễm độc

Bảo quản và quản lý thuốc theo chế độ bảo quản hoá chất gây độc.

Với những nhân viên tiếp xúc với hoá chất trừ sâu, kể cả nhân viên y tế cấp cứu bệnh nhân ngộ khẩu trang, ủng nilon, áo bảo hộ... khi phun thuốc, người phun phải đứng xuôi chiều gió.độc, giai đoạn xử trí cấp cứu (rửa dạ dày). Phải có đủ phương tiện phòng chống như:

Nhận định tình trạng bệnh nhân

Nhận định bằng cách hỏi bệnh

Hỏi xem bệnh nhân ngộ độc thuốc gì?

Số lượng, đường trúng độc.

Nồng độ đậm đặc hay pha loãng

Uống lúc đói hay lúc no.

Thời gian, lý do?

Các bệnh lý đã mắc trước đây.

Tình trạng nôn sau khi trúng độc.

Thời gian từ khi trúng độc đến khi được cấp cứu.

Đã được điều trị gì trước đó?

Nhận định bằng cách quan sát

Tình trạng tinh thần?

Nước tiểu: số lượng, màu sắc.

Quan sát da, móng tay, móng chân tím.

Tình trạng tăng tiết.

Tình trạng hô hấp

Đánh giá dấu hiệu thấm atropin.

Nhận định bằng cách thăm khám

Đếm mạch

Đo huyết áp

Nhiệt độ

Đếm nhịp thở

Mùi hôi trên áo quần, trên da, tóc, hơi thở

Đồng tử to nhỏ hay giãn, kích thước?

Đo độ bão hoà oxy máu

Nhận định bằng cách thu thập các vấn đề khác có liên quan

Hoàn cảnh gia đình

Tình trạng trước khi vào viện: được xử trí gì?

Chẩn đoán và chăm sóc của tuyến trước

Chẩn đoán điều dưỡng

Một số chẩn đoán điều dưỡng chính có thể có ở bệnh nhân ngộ độc thuốc trừ sâu:

Nôn, buồn nôn do tăng nhu động ruột.

Khó thở do co thắt cơ trơn phế quản.

Ho do tăng tiết dịch gây kích thích phế quản.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm hô hấp

Duy trì tuần hoàn

Thực hiện các y lệnh của bác sĩ

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn

Loại trừ chất độc của cơ thể:

Rửa dạ dày đúng kỹ thuật

Thay áo quần, tắm rửa

Thụt tháo, rửa sạch bằng nước xà phòng

Nuôi dưỡng duy trì các chức năng sống

Giáo dục cách phòng bệnh

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Thực hiện chăm sóc cơ bản

Nhanh chóng loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể: súc rửa dạ dày, thay áo quần sạch, tắm rửa, gội đầu cho bệnh nhân

Đặt bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng an toàn.

Đặt canun đè lưỡi sau khi đã móc đàm dãi hoặc dị vật.

Bóp bóng Ambu nếu có cơn ngừng thở.

Cho thở oxy theo chỉ định của bác sĩ.

Chuẩn bị dụng cụ, thuốc men để phụ giúp bác sĩ đặt nội khí quản.

Theo dõi nhịp thở, tình trạng tăng tiết, da, môi, móng tay, chân.

Hút đàm dãi.

Đề phòng hít phải chất nôn.

Đề phòng tụt lưỡi.

Lấy mạch, đo huyết áp ngay khi tiếp nhận bệnh nhân và báo cáo bác sĩ.

Chuẩn bị ngay dụng cụ truyền dịch, dịch đẳng trương, thuốc nâng huyết áp (nếu bệnh nhân tụt huyết áp).

Chuẩn bị bộ cathete tĩnh mạch trung tâm và phụ giúp bác sĩ tiến hành đặt cathete tĩnh mạch trung tâm nhằm truyền khối lượng dịch lớn và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở thường xuyên mỗi 15 phút hoặc theo chỉ định của bác sĩ điều trị.

Đặt bệnh nhân ở tư thế thích hợp, sớm sử dụng các phương tiện phòng chống loét nếu bệnh nhân hôn mê.

Vệ sinh hàng ngày: bệnh nhân tỉnh tự phục vụ được chỉ cần giúp bệnh nhân. Nếu bệnh nhân hôn mê: cần chăm sóc răng miệng ít nhất ngày 3 lần. Rửa mặt bằng khăn riêng và nhỏ mắt bằng cloramphenicol 4%. Phần hậu môn, sinh dục cần được lau rửa thường xuyên sau mỗi lần đại tiện. Khăn, giường chiếu luôn giữ khô và phẳng. Hút đàm dãi thường xuyên.

Ăn uống: lượng nước uống của bệnh nhân phải nhiều hơn bình thường để chất độc được đào thải nhanh. Tuy nhiên lượng nước đó cũng phải tính toán trên cơ sở cân bằng lượng nước vào cơ thể. Thức ăn kiêng mỡ, sữa và rượu ít nhất là 10 ngày.

Nhiều bệnh nhân ngộ độc thuốc sâu khi dùng atropin bị kích thích vật vã nên dễ ngã, đề phòng ngã bằng cách nằm giường có thành chắn.

Nhỏ thuốc mắt nhiều lần trong ngày đề phòng khô giác mạc, nhiễm khuẩn mắt.

Thực hiện y lệnh của bác sĩ

Thuốc: thực hiện chính xác, đầy đủ, khẩn trương.

Atropin: trước khi tiêm cần lấy mạch, xem đồng  tử,  da,  tình  trạng tinh thần kinh. Nếu có dấu hiệu thấm atropin hoặc mạch trên 120 lần /phút, kích thích vật vã phải báo cáo ngay với bác sĩ để điều chỉnh liều thuốc.

P.A.M 1 ống 0, 5g tiêm tĩnh mạch thật chậm trong 5 phút.

Dịch truyền, kháng sinh...

Các xét nghiệm

Các thủ thuật can thiệp trên bệnh nhân.

Phụ giúp đặt nội khí quản, mở khí quản để dẫn lưu đàm và bảo đảm  thông khí.

Phụ giúp đặt catete tĩnh mạch trung tâm để truyền dịch với khối lượng lớn và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Đặt thông tiểu, dẫn lưu nước tiểu theo dõi lượng nước tiểu 24 giờ.

Đặt thông dạ dày.

Tuỳ từng loại thủ thuật người điều dưỡng phụ giúp bác sĩ làm hoặc  trực  tiếp tiến hành và sau đó chăm sóc theo quy trình, nhằm mục đích điều trị và chăm sóc không có tai biến, không có nhiễm khuẩn và có hiệu quả.

Theo dõi

Mạch, độ ấm của da

Đồng tử: kích thước, mức độ đáp ứng ánh sáng

Trạng thái tinh thần

Huyết áp

Nhịp thở

Theo dõi dấu hiệu no atropin

Màu sắc số lượng nước tiểu 24 giờ

Theo dõi lượng dịch vào, ra để đảm bảo cân bằng dịch

Theo dõi tình trạng hô hấp

Các dấu hiệu loét da và các bất thường khác.

Giáo dục sức khoẻ

Phân tích cho họ thấy được tác hại của thuốc, cách bảo quản thuốc, đề phòng ngộ độc và cách sử dụng thuốc dùng.

Nếu bệnh nhân ngộ độc do tự tử, điều dưỡng giúp bệnh nhân và gia đình họ giải quyết mâu thuẫn gây ra ngộ độc là điều cần thiết ngay trong khi bệnh nhân đang điều trị để ngăn ngừa lần ngộ độc tiếp theo.

Đánh giá

Bệnh nhân được đánh giá chăm sóc tốt nếu đạt các tiêu chuẩn:

Đầu, tóc, da, dịch dạ dày, giường chiếu không có mùi thuốc sâu

Các y lệnh điều trị được thực hiện đầy đủ, chính xác

Các xét nghiệm được làm và thu thập đầy đủ, sớm

Các dấu hiệu sinh tồn dần dần trở về mức bình thường và ổn định

Bệnh nhân hiểu được nguy cơ của thuốc và biết được cách phòng trúng độc

Không có biến chứng xảy ra. Trong quá trình điều trị bệnh nhân không bị trợt loét, không mắc thêm nhiễm khuẩn nhất là nhiễm khuẩn hô hấp.

Nếu được điều trị bằng atropin, bệnh nhân có dấu hiệu thấm atropin vừa phải.

Các chỉ số theo dõi và chăm sóc được ghi chép đầy đủ.