Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Trong thế giới động vật, ít nhất có một loài đi ngược lại quy luật thông thường, trong đó giống đực trực tiếp mang thai rồi sinh con. Đó là cá ngựa biển, còn gọi là hải mã.

Cứ đến mùa động đực, bên sườn cá ngựa đực hình thành những nếp nhăn và đần phát triển thành chiếc túi nuôi con. Cá ngựa cái sẽ phóng trứng vào chiếc túi ấy, mỗi đợt khoảng 100 trứng. Trứng sẽ hóa thành bào thai. Trên thành túi nuôi con của cá ngựa đực xuất hiện rất nhiều mạch máu nổi, nối liền với mạch máu các bào thai nhằm cung cấp dưỡng chất cho chúng. Đến lúc trứng nở thành cá ngựa con thì cá ngựa đực “vượt cạn”.

Theo các nhà nghiên cứu, môi trường sống của cá ngựa là vùng đáy biển nông, rất phức tạp và thường xuyên đối mặt với nhiều nguy hiểm. Chính nhờ tập tính sinh sản khác thường này mà cá ngựa mới đảm bảo tối đa cho việc truyền giống.

Khác với các loài cơ thể sống khác dưới biển, cá ngựa có đặc trưng sinh đẻ rất khác biệt. Những con đực sẽ là những ma quỉng thai và trực tiếp mang lại những con cá ngựa non.

Cá ngựa hay cá ngựa là tên của một loài động vật sống ở các vùng biển vùng nhiệt đới. Chúng thường có chiều dài từ 16cm đến 35cm. Có thể coi cá ngựa là một loại cá vì chúng có đầy đủ vây ngực và vây lưng. Cá ngựa thường ăn các loài giáp xác nhỏ như tôm hoặc cá bằng cách hút vào miệng. Cá ngựa có thể sống theo cặp nhưng cũng có thể sống bầy đàn đàn. Khi sống theo bầy đàn, ngoài việc giao phối vào buổi sáng hoặc chập tối, chúng dành toàn bộ thời gian còn lại để kiếm ăn.

Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Cá ngựa thường ăn các loài giáp xác nhỏ như tôm hoặc cá bằng cách hút vào miệng.

Loài cá ngựa có họ hàng hàng gần với loài cá chìa vôi và cá rồng biển vì đặc tính của giống loài này là con đực thường làm nhiệm vụ mang thai và đẻ con thay cho nhiệm vụ của con cái. Tuy nhiên thay vì nuôi những con cá ngựa non trong bụng của chúng giống như tử cung của những con cái, cá ngựa đực sẽ “mang thai” trong một chiếc túi giống như túi của chuột túi (kangaroo).

Tại sao mang thai lại là “sứ mệnh” của cá ngựa đực?

Có một giả thiết về lí do tại sao cá ngựa đực thường mang thai. Đó là bởi kết cấu tự nhiên của cá ngựa đực giúp sinh ra nhiều cá ngựa non và với nhịp độ nhanh hơn. Trong khi đó con cái sẽ trao tất cả số trứng mà nó có bên trong túi con đực khi giao phối.

Vì vậy nó cần nhiều thời gian hơn để phục hồi và tạo ra trứng mới. Một con cá ngựa đực có thể sinh cá ngựa non cùng ngày và tiếp tục mang thai tiếp lứa tiếp theo sau khi cá ngựa cái đã chất đống đủ số trứng. Nhờ sự phân công nhiệm vụ này nên con cái thoả mãn thời gian để phục hồi sinh lực và tạo ra nhiều trứng hơn thay vì phải kiêm cùng lúc nhiệm vụ tạo trứng và nuôi cá ngựa non.

Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Cấu tạo tự nhiên của cá ngựa đực giúp sinh ra nhiều cá ngựa non và với nhịp độ nhanh hơn.

Trước khi gửi trứng cho cá ngựa đực “trông nom”, cá ngựa cái đã áp dụng sinh lực của mình để cung cấp chất dinh dưỡng cho lớp vỏ trứng. Nhiệm vụ còn lại của cá ngựa đực chỉ là tạo môi trường an toàn để nuôi cá ngựa non tiến triển.

Để đẻ con, cá ngựa phải giao phối trước. Con đực và con cái sẽ liên tục bơi vòng quanh để tán tỉnh nhau bằng những chiếc vây. Chúng có thể vờn nhau như vậy trong vài ngày xửa ngày xưa khi giao phối.

Sau khi đã đồng ý giao phối, cá ngựa cái sẽ bơi gần về phía mặt nước và cá ngựa đực sẽ bơi theo sau. Con cái sau đó sẽ đặt trứng màu cam sáng bên trong túi của con đực thông qua lỗ phía trên đỉnh túi. Sau khi đưa trứng an toàn vào bên trong, con đực sẽ phóng tinh trùng của chúng vào chúng và tiến hành đóng cửa túi. Trứng sau khi được thụ tinh sẽ bắt đầu tiến triển thành cá ngựa non.

Lúc này công việc của cá ngựa mẹ đã xong. Còn cá ngựa bố giờ đây sẽ đóng vai trò của người chăm sóc và ấp trứng. Túi đựng trứng của cá ngựa đực có khả năng điều chỉnh thân nhiệt, lưu lượng máu và độ mặn của nước để đảm bảo trứng có khả năng tài chính tiến triển tốt nhất.

Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Cá ngựa bố giờ sẽ đóng vai trò của người chăm sóc và ấp trứng.

Thời gian mang thai khoảng 2-3 tuần. Sau khoảng 20 ngày, cá ngựa non bắt đầu mọc mắt, mõm và đuôi. Trong thời điểm này, cá ngựa đực thường phải hoàn toàn chú ý giữ gìn túi trứng trước kẻ thù .

Cá ngựa đực sẽ mở lỗ trong túi ấp và giật mạnh để ép tất cả cá ngựa non bơi ra ngoài. Tốc độ đẩy rất nhanh và trông rất ngoạn mục. Trên thực tế, một số loài cá ngựa có thể sinh ra hơn 1 ngàn cá ngựa non cùng lúc.

Sau khi đẻ con, cá ngụa đực không cần làm gì thêm cho cá ngựa non. Khi này những con cá ngựa non sẽ bắt đầu một cuộc sống mới và phải tự lập, chăm sóc tự tay và trốn tránh kẻ săn mồi vì hiện tại cá ngựa bố mẹ sẽ không bảo vệ chúng nữa.

Vì sao cá ngựa đực đẻ con

Cá ngựa đực sẽ mở lỗ trong túi ấp và giật mạnh để ép tất cả cá ngựa non bơi ra ngoài.

Cá ngựa non nhỏ tới nỗi chúng chẳng thể ăn các cơ thể sống phù du như bố mẹ chúng. Do đó khả năng sống của cá ngựa non cũng vì thế mà thấp hơn rất nhiều. Ngoài ra, chúng có xu hướng bị dòng hải lưu cuốn đi trước khi kịp bám vào các tảng đá hoặc san hô để lnép mình. Lúc này nhiều cá ngựa non vô tình lại trở thành mồi ngon cho các loài cá khác.

Cá ngựa đực không ăn cho đến vài giờ sau khi sinh. Tuy nhiên nếu những con cá ngựa non vẫn quẩn quanh, chúng có thể vô tình trở thành bữa ăn ngon miệng cho cá ngựa đực. Đúng vậy, đôi khi cá ngựa đực cũng ăn luôn cả con của mình.

Giống như nhiều loài cá mới sinh khác, trong số hàng trăm con cá ngựa non sinh ra sẽ chỉ có một vài con thoả mãn khả năng tồn tại và trở thành cá ngựa trưởng thành.

Bạn có thể xem một đoạn video về quá trình cá ngựa đực đẻ con dưới đây:

Cập nhật: 31/08/2019 Theo vnreview

Cá ngựa (tên khoa học Hippocampus), hay hải mã, là tên gọi chung của một chi động vật sống ở đại dương ở các vùng biển nhiệt đới. Cá ngựa có chiều dài trung bình là 16 cm, có loài dài đến 35 cm. Cá ngựa được xem là một loài thuốc quý ở khu vực Đông Á, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam.

Vì sao cá ngựa đực đẻ con
Cá ngựa Khoảng thời gian tồn tại: Lower Miocene đến nay – 23–0 triệu năm trước đây

TiềnЄ

Є

O

S

D

C

P

T

J

K

Pg

N

Hippocampus hippocampus Phân loại khoa học
Vì sao cá ngựa đực đẻ con
Giới: Animalia Ngành: Chordata Lớp: Actinopterygii Bộ: Syngnathiformes Họ: Syngnathidae Phân họ: Hippocampinae Chi: Hippocampus
Rafinesque, 1810[1][2] Loài điển hình Hippocampus heptagonus
Rafinesque, 1810 Các đồng nghĩa
  • Acentronura Kaup, 1853
  • Farlapiscis Whitley, 1931[3]
  • Jamsus Ginsburg, 1937
  • Macleayina Fowler, 1907
  • Phyllopteryx Swainson 1839

Cá ngựa là cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae, bao gồm cả cá chìa vôi. Chúng được tìm thấy ở những vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi trên thế giới.

Cá ngựa và cá chìa vôi là 2 chi cá đặc biệt ở chỗ con đực "mang thai" và sinh con.

Cá ngựa thật sự là một loài cá. Nó có vây ngực ở phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy trong các bức ảnh.

Số lượng cá ngựa đã bị giảm sút đến mức nghiêm trọng do đánh bắt cá gia tăng. Cá ngựa được dùng trong những vị thuốc truyền thống của Trung Quốc, hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa bị đánh bắt để phục vụ cho mục đích này. Việc nhập và xuất khẩu cá ngựa được tổ chức CITES kiểm soát từ ngày 15/05/2004.

Cá ngựa ăn cá hương và những loài giáp xác như tôm nhỏ, chúng ăn bằng cách dùng miệng để mút con mồi.

 

Loài cá ngựa này sống nhiều ở vùng biển nam nước Úc.

Cá ngựa sinh con theo một cách kỳ lạ: con đực "mang thai". Theo báo cáo của Công trình nghiên cứu về cá ngựa thì cá cái đưa trứng vào túi ấp của cá đực làm cho con đực có vẻ như đang mang thai. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng cá đực truyền tinh dịch của chúng ra xung quanh chứ không đưa trực tiếp vào túi ấp. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần.

Trứng cá ngựa nở khi nào phụ thuộc vào bố mẹ của chúng. Một số trải qua thời gian phát triển chung với những phiêu sinh vật biển. Đôi khi những con cá ngựa đực có thể ăn một số con của nó trước khi chúng được tự do. Những loài cá ngựa khác ngay lập tức bắt đầu cuộc sống dưới đáy biển.

Thông thường cá ngựa sống thành cặp, nhưng có một số loài sống thành bầy đàn. Khi sống thành cặp, cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoặc đôi khi vào chập tối để củng cố thêm mối quan hệ của chúng. Phần thời gian còn lại chúng dành cho việc tìm thức ăn.

Nhiều người nuôi cá ngựa như thú cưng. Cá ngựa chỉ ăn thức ăn tươi như tôm biển và thường nằm úp người xuống bể, hành động này sẽ làm cho hệ thống miễn dịch của chúng hoạt động yếu hơn, từ đó mà dễ mắc các bệnh.

Trong thời gian gần đây, những con cá ngựa được nuôi sinh sản nhiều hơn trước. Trong tình trạng bị giam cầm, chúng sống tốt hơn và ít mắc bệnh. Những con cá ngựa này sẽ được cho ăn tôm cám, chúng cũng sẽ không bị sốc hay lo lắng căng thẳng khi đột ngột bị bắt ngoài biển và thả vào bể cá. Dù những con cá ngựa được nuôi từ nhỏ có giá đắt hơn nhưng chúng thích nghi và sống sót tốt hơn những con cá ngựa ngoài tự nhiên.

Cá ngựa nên được nuôi trong bể cá thích hợp. Chúng ăn khá chậm, nhưng khi được nuôi trong bể, chúng trở nên hung hăng, cạnh tranh để giành thức ăn cho riêng mình. Vì vậy, người nuôi chúng cũng cần chú ý đảm bảo lượng thức ăn cho mỗi con.

Cá ngựa có thể chung sống với một số loại tôm hay động vật đáy, đôi khi với cá bống. Một số loài khác có thể gây nguy hiểm cho cá ngựa như lươn, bạch tuộc hay mực ống...

Những loại cá ngựa nước ngọt được bán có thể là một loại gần giống như cá chìa vôi ở sông. Cá ngựa nước ngọt thật ra không thể được xem là cá ngựa thật sự. Các loài cá ngựa mới tìm được gần đây sống trong nước lợ.

Cá ngựa có đôi mắt cao di động có khả năng quan sát kẻ thù và mồi mà không cần di chuyển. Giống như loài rồng biển, cá ngựa cũng có một cái vòi dài để mút con mồi. Vây cá ngựa nhỏ thích hợp luồn lách qua những đám tảo dày. Ngoài ra, nó còn có một cái đuôi dài và có khả năng quấn quanh tảo biển để giữ mình không bị dòng nước cuốn đi.

 

Cá ngựa đen, Hippocampus kuda

 

Hippocampus satomiae bám vào san hô

Họ Syngnathidae
  • Phân họ Hippocampinae
    • Chi Hippocampus
      • H. abdominalis Lesson, 1827 (New Zealand và nam và đông Úc)
      • H. alatus Kuiter, 2001
      • H. algiricus Kaup, 1856
      • H. angustus Günther, 1870
      • H. barbouri Jordan & Richardson, 1908
      • H. bargibanti Whitley, 1970Tây Thái Bình Dương (Indonesia, Philippines, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, vv...)
      • H. biocellatus Kuiter, 2001
      • H. borboniensis Duméril, 1870
      • H. breviceps Peters, 1869 (nam và đông Úc)
      • H. camelopardalis Bianconi, 1854
      • H. capensis Boulenger, 1900
      • H. colemani Kuiter, 2003
      • H. comes Cantor, 1850: Cá ngựa vằn
      • H. coronatus Temminck & Schlegel, 1850
      • H. denise Lourie & Randall, 2003
      • H. erectus Perry, 1810 (đông bờ biển của châu Mỹ, giữa Nova Scotia và Uruguay)
      • H. fisheri Jordan & Evermann, 1903: Cá ngựa Fisher
      • H. fuscus Rüppell, 1838 (Ấn Độ Dương): Cá ngựa nhỏ
      • H. grandiceps Kuiter, 2001
      • H. guttulatus Cuvier, 1829
      • H. hendriki Kuiter, 2001
      • H. hippocampus (Linnaeus, 1758) (Địa Trung Hải và Đại Tây Dương)
      • H. histrix Kaup, 1856: Cá ngựa gai dài[4] (Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ, và Viễn Đông)
      • H. ingens Girard, 1858 (bờ biển Thái Bình Dương của Bắc, Trung và Nam Mỹ)
      • H. jayakari Boulenger, 1900
      • H. jugumus Kuiter, 2001
      • H. kelloggi Jordan & Snyder, 1901
      • H. kuda Bleeker, 1852: Cá ngựa đen
      • H. lichtensteinii Kaup, 1856
      • H. minotaur Gomon, 1997
      • H. mohnikei Bleeker, 1854
      • H. montebelloensis Kuiter, 2001
      • H. multispinus Kuiter, 2001
      • H. pontohi Lourie & Kuiter, 2008
      • H. procerus Kuiter, 2001
      • H. queenslandicus Horne, 2001
      • H. reidi Ginsburg, 1933 (các rạn san hô Vùng Caribe)
      • H. satomiae Lourie and Kuiter, 2008
      • H. semispinosus Kuiter, 2001
      • H. severnsi Lourie and Kuiter, 2008
      • H. sindonis Jordan & Snyder, 1901
      • H. spinosissimus Weber, 1913
      • H. subelongatus Castelnau, 1873
      • H. trimaculatus Leach, 1814
      • H. whitei Bleeker, 1855 (Đông Australia)
      • H. zebra Whitley, 1964
      • H. zosterae Jordan & Gilbert, 1882 (Vịnh Mexico và vùng biển Caribbe)

  1. ^ Rafinesque Schmaltz, C. S. (1810). “G. Hippocampus”. Caratteri di alcuni nuovi generi e nuove specie di animali e piante della Sicilia: con varie osservazioni sopra i medesimi. Palermo: Sanfilippo. tr. 18.
  2. ^ Hippocampus Rafinesque, 1810, WoRMS
  3. ^ Whitley, Gilbert P. (1931). “New Names for Australian Fishes”. The Australian Zoologist. 6 (4): 313.
  4. ^ Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.14.

  • Cá ngựa tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Sea horse tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  • Cá Ngựa – Loài Cá Quý Hiếm Với Công Dụng Tuyệt Vời

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Cá_ngựa&oldid=68798450”