Vì sao phép biện chứng của hêghen là phép biện chứng duy tâm

Ý nghĩa của phép biện chứng Heghen

Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng Chuẩn
10:20 CH @ Thứ Sáu - 20 Tháng Giêng, 2006
Triết học luôn luôn phải hướng tới tương lai bởi vì như C. Mác nói: Triết học không chỉ giải thích thế giới mà còn phải góp phần cải tạo thế giới. Đặc biệt, triết học mácxít khi thực hiện chức nàng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của mình. không thể không hướng tới tương lai. Song, để hướng tới tương lai và phục vụ tốt cho tương lai thì triết học nói chung đồng thời cũng không ngừng hướng về quá khứ, lịch sử về cội nguồn của mình.
.
Điều này là hoàn toàn hợp quy luật vì rằng nhiều vấn đề tuổi học hiện đại đã được đặt ra ở các thời đại phát triển khác nhau xa xôi trước kia của triết học. Hơn bất cứ một khoa học nào khác triết học kể cả các khuynh hướng mới về nguyên tắc đều đòi hỏi phải dựa vào cội nguồn lịch sử kể từ khi mới hình thành và vào toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của mình.
.
Nếu xem xét một cách cẩn thận và khoa học thì chúng ta thấy rằng các phạm trù cơ bản của triết học vẫn giữ được ý nghĩa của chúng suốt nhiều thế kỷ mặc dù nội dung của chúng có thể biến đổi và trở nên phong phú hơn rất nhiều. Các tác phẩm triết học lớn đã tồn tại đã vượt qua được sự thẩm định hết sức nghiêm khắc của các thời đại và cho đến hiện nay vẫn tiếp tục tỏ rõ vai trò của chúng trong đời sống trí tuệ của nhân loại.
.
Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết triết học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những nhà triết học kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ khác đều được phục hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có những thay đổi rất lớn chẳng hạn đó là học thuyết Platôn, học thuyết Arixtốt học thuyết R.Đêcáctơ học thuyết I.Cantơ học thuyết G.Hêgen.v.v..
.
Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là không nên đi tìm hoặc quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một nhóm các đồ đệ trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó. Và điều này cũng hoàn toàn đúng với học thuyết của Hêgen. Chúng ta không cần phải mất công sức chứng minh việc triết học Hêgen đã có ảnh hưởng vượt ra khỏi khuôn khổ của thuyết Hêgen ra sao tức là khuôn khổ của một trường phái đã thừa nhận các tiền đề xuất phát của hệ thống triết học Hêgen.
.
Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêgen (Hegel) hiện nay không phải là một trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học Hêgen đặc biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những không hề giảm bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá đặc biệt là các nhà nghiên cứu về di sản triết học của Hêgen thường lại không phải là những người theo trường phái Hêgen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả các nhà duy tâm lẫn các nhà duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn những người ủng hộ chủ nghĩa phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học Hêgen. Trong số các nhà triết học duy tâm lý giải triết học Hêgen và cố gắng đồng hoá các tư tưởng của ông thì thậm chí chúng ta lại bắt gặp những người cố gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức xa lạ với học thuyết Hêgen chẳng hạn chủ nghĩa hiện sinh. chủ nghĩa nhân cách triết học phân tích thần học biện chứng.v.v..
.
Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêgen (Hegel) đã và đang có sức cuốn hút các nhà tư tưởng vốn theo đuổi những định hướng triết, học rất khác nhau đó đến như vậy?
Vì sao phép biện chứng của hêghen là phép biện chứng duy tâm
So sánh cái nhìn của Hegel và Marx về thực tại
.
Theo chúng tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau đồng thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêgen đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nói chung một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến hôm nay.
.
Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng của các thời đại trước đây tuyệt nhiên chúng ta không được tô vẽ không được hiện đại hoá các quan điểm đó của họ.
.
Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi không được biện hộ một chiều các quan điểm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi những điều kiện lịch sử hoặc những thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là giá trị trong di sản triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về di sản đó. Một mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử những khiếm khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó: những mặt khác chúng ta cần rút ra và nhấn mạnh những gì trong di sản đó đã vượt qua được thử thách ngặt nghèo của thời gian đã trở thành một khâu hữu ích trong quá trình phát triển của tư tưởng triết học.
.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêgen không phải là dễ dàng. Bởi vì triết học Hêgen không những quá đồ sộ quá bách khoa quá uyên bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong mình nó không ít những mâu thuẫn những xu hướng khác nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một phần là nguyên cớ một phần cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức khác nhau đối với học thuyết, Hêgen.
.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêgen song không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư cách là sự đi lên theo thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
.
Hệ vấn đề phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là do tính chất biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức khoa học hiện đại ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến mang tính lịch sử toàn cầu và vô cùng đa dạng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp hành tinh chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học tự nhiên hiện đại cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được nghiên cứu ở mọi cấp độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã xâm nhập vào nhận thức khoa học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi mô. Nguyên tắc phát triển thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học.
.
Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm gần đây đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với tư tưởng về sự phát triển và sự tự phát triển.
.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần được mở ra qua những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ sinh học. Cơ sở phân tử và dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của sự tiến hoá nói chung vì vậy đang thù hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học và nhiều phòng thí nghiệm lớn của thế giới. Hơn bao giờ hết.
.
Nguyên tắc phát triển đang trở thành nguyên tắc cơ bản của toàn bộ nhận thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của của tư tưởng phát triển đối với sự tiến bộ của khoa sinh thái học và của thực tiễn sinh thái ngày càng rõ nét hơn và hiển nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ những mâu thuẫn của sự tiến bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự làm chủ của con người đối với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự thống trị đó không chỉ đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà còn gây nên cả những tổn thất không nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi con người không kiểm soát được nó. Đồng thời: việc áp dụng hợp lý các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển bản thân con người thúc đấy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo chỉ có thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Chính sự biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và trên cơ sở nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn đề bức bách đang được đặt ra trước nhân loại.
.
Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tăng lên một cách đặc biệt không phụ thuộc vào bản thân triết học Hêgen. Tuy nhiên chính học thuyết của Hêgen là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêgen lý giải là phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Trong triết học Hêgen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết, quả của sự phát triển hợp quy luật.
.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với trật tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêgen đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêgen đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học.
.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêgen. Phù hợp với chúng Hêgen quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội. Đó chính là lý do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học thuyết Hêgen trở thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện chứng của Hêgen vì chính C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của Hêgen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêgen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêgen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy ở Hêgen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần thánh.
.
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã được C. Mác đặt ra đó C. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó. trước hết là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêgen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn nhau xâm nhập vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết họe mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật. Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà còn là lý luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất đầy đủ nhất toàn diện nhất và không phiến diện nhất về sự phát triển.
.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không bao giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với, phép biện chứng của Hêgen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông vẫn không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những khái quát mới về phép biện chứng Hêgen. Điều mà tiếc thay các ông chưa kịp thực hiện.
.
Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên trì nhấn mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một, cách duy vật đối với phép biện chứng Hêgen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu" - tác phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu gọi thành lập "Hội những người bạn duy vật của phép biện chứng Hêgen" để tiến hành công tác nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêgen: "Dựa vào cách của Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêgen hiểu theo quan điểm duy vật chúng ta có thể và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó trên tát cả các mặt".
.
Những chỉ dẫn rất: quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết, luận được chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêgen và trước hết là về phép biện chứng Hêgen. Ngay từ giữa những năm 90 thế ký XIX Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêgen của mặt cách mạng của nó mà thậm chí phái Hêgen mới đã bỏ qua trong bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin viết: "Lòng tin của Hêgen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học Hêgen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở Béclanh không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác đang hoành hành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng. Nếu mọi cái đều phát triển nếu những thể chế này bị thể chế khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế của vua Phổ hay của Nga hoàng việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt đại đa số sự thống trị của giải cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?"Như vậy tiềm năng cách mạng
trong phép biện chứng của Hêgen đã được Lênin vạch ra; tiềm năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự phát triển sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sự phủ định biện chứng với tư cách một bậc thang tất yếu của sự phát triển.
.
Như mọi người đền biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho dù phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải phân tích quá trình diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga. Lênin vẫn tìm được thời gian để nghiên cứu một cách có hệ thống triết học Hêgen đặc biệt là "Khoa học lôgíc" và "Những bài giảng về lịch sử triết học" của Hêgen. Các bản tóm tắt sâu sắc và cô đọng về những tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ phán đáng kể và hơn nữa là bộ phận quan trọng nhất trong "Bút ký triết học" nổi tiếng của V.I. Lênin. trong đó không những ông đã vạch rõ sự phong phú tuyệt vời của các tác phẩm cơ bản của Hêgen mà còn đưa ra các kết luận triết học mới góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng. "Bút ký triết học" của V.I. Lênin chứng tỏ đầy sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép biện chứng Hêgen còn lâu mới hoàn tất rằng trong lĩnh vực này sẽ có những nghiên cứu khám phá và thành tựu mới. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không thể xem xét một, cách thật sự có hệ thống và thật đầy đủ sự phân tích của Lênin về "Khoa học lôgíc". Do vậy chúng tôi chỉ đề cập đến sự đánh giá chung và khái quát của Lênin đối với học thuyết lôgíc của Hêgen. Thực chất của sự đánh giá này là: dưới hình thức lộn ngược học thuyết Hêgen phản ánh bức tranh khách quan về thế giới. Phân tích quan niệm của Hêgen về “ý niệm mà rốt cuộc hoá ra là giới tự nhiên. Lênin viết: "Hêgen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng của thế giới của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm".
.
Nói cách khác các quy luật phổ biến của sự phát triển của giới tự nhiên của xã hội loài người và của sự nhận thức không thể được mô hình hoá chỉ phù hợp với các quy luật của một mình sự nhận thức của một mình tư duy như hệ thống Hêgen giả định. Không thể rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy. Từ một thực tế là các quy luật của tồn tại được phản ánh trong tư duy. Hêgen đã rút ra một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hêgen thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu. Nhưng dù sao Hêgen cũng đã luận chứng theo kiếu duy tâm luận điểm cho rằng các hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã hội không phụ thuộc vào tư duy. Quay trở lại vấn đề này ở một chỗ khác. Lêmn viết: "Hêgen đã chứng minh rằng những hình thức lôgíc và những quy luật lôgíc không phải là một cái vỏ trống rỗng: mà là phản ánh của thế giới khách quan. Nói đúng hơn không phải ông đã chứng minh như vậy mà đã đoán thấy một cách tài tình như vậy" ,
.
Khi phân tích "Khoa học lôgíc" của Hêgen. Lênin thường xuyên đối chiếu nó với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả của một việc làm đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêgen. Trong tác phẩm cơ bản này của mình Mác đã nghiên cứu. thứ nhất sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; thứ hai sự phát triển của nhận thức về kinh tế tư bản chủ nghĩa (lịch sử của kinh tế học chính trị) và thứ ba sự phát triển của các phạm trù kinh tế học mà thông qua đó việc nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa được thực hiện.
.
Vạch ra sự thống nhất của bả mặt cơ bản nay (bản 'thể luận nhận thức luận và lôgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lênin đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng: "Mác không để lại cho chúng ta "lôgíc học" (với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgíc của "Tư bản" và cần phải tận dụng đầy đủ nhất lôgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong "Tư bản". Mác áp dụng lôgíc phép biện chứng và lý luận nhận thức . . . của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêgen tất cả cái gì có giá trị và phát triển thêm lên" Nhờ trí tuệ uyên bác của Mác mà phép biện chứng duy vật đã được tạo ra và với tất cả sự đối lập với phương pháp Hêgen nó vẫn thừa nhận và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với phương pháp đó Như trên đã nói cho đến nay sự quan tâm đối với di sản triết học của Hêgen vẫn không ngừng tăng lên. Phải coi đây là hiện tượng tích cực vì về thực chất sự quan tâm ngày một tăng lên này là sự quan tâm không những đối với thứ triết học đã tổng kết về mặt lý luận lịch sử biện chứng đã có từ trước đó mà còn là sự quan tâm đối với toàn bộ lịch sử nhận thức nói chung. Sẽ thật là ngây thơ nếu như không nhận thấy rằng tuỳ thuộc vào định hướng khoa học và ý thức hệ mà các nhà triết học sẽ có các cách tiếp cận khác nhau đối với việc nghiên cứu và đánh giá phép biện chứng của Hêgen. Một số nhà triết học cố gắng nghiên cứu các tư tưởng biện chứng thiên tài của Hêgen trên cơ sở các dữ liệu của khoa học hiện đại và kinh nghiệm lịch sử mới của thời đại. Ngược lại có một số nhà triết học khác lại tiến hành nghiên cứu phép biện chứng Hêgen cất chỉ để bác bỏ nó chỉ để thuyết phục người khác tin rằng về nguyên tắc phép biện chứng không áp dụng được vào thế giới khách quan mà chỉ có quan hệ với tư duy Như vậy không thể không nhận thấy rằng trong số những người nghiên cứu phép biện chứng Hêgen thì một số là các nhà biện chứng còn số khác là kẻ thù của phép biện chứng.
.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng chúng ta đánh giá cao công lao vĩ đại của Hêgen cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học và cửa thực tiễn hiện đại đế làm giàu thêm phép biện chứng duy vật của C. Mác là nhiệm vụ quan trọng và không bao giờ kết thúc.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. t. 23. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 1993. tr. 35.
(2) V.I.Lênin.Toàn tập. t.45.Nxb Tiến bộ. Mátxcơva. 1983. tr. 36
(3) V.I.Lênin sđd.t.2. tr. 5-6.
(4) V.I.Lênin.. Sđd.. t. 29. tr. 209.
(5) V.I. Lênin. Sđd.. tr. 191.
(6) V.I. Lênin. Sdd.. tr. 359 - 360.
Nguồn:Tạp chí Triết học
LinkedInPinterestCập nhật lúc:08:49 CH @ 21/02/2018
triết họcbiện chứngHegel

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.17 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
µµµ
MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA
ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
TP.HCM, tháng 12/2012
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Ánh Linh
STT: 53 - Nhóm: 01
Lớp: Cao học Đêm 1 - Khóa: K22
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Ánh Linh
STT: 53 - Nhóm: 01
Lớp: Cao học Đêm 1 - Khóa: K22
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đă có lịch sử gần 3000 năm.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, triết học luôn
phản ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy tư duy loài người. Mỗi giai
đoạn phát triển của triết học đều xuất hiện những nhà triết học kiệt xuất mà tư
tưởng triết học của họ gắn liền với lịch sử thời đại lúc bấy giờ.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Đây là đỉnh cao của thời
kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học
hiện đại. Tuy triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn
nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó
đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ 17,
18. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới trình độ
một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt tới và


chủ nghĩa duy vật thế kỷ 17 – 18 cũng không có khả năng tạo ra.
Một trong những đại diện tiêu biểu của triết học cổ điển Đức là Hêghen.
Triết học của Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất và rực rỡ nhất
của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, đã xây dựng
nên hệ thống triết học duy tâm khách quan nổi tiếng. Trong đó nổi bật là Phép
biện chứng duy tâm - một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mác.
Mục tiêu của đề tài này là trình bày về Phép biện chứng duy tâm Hêghen
và phân tích làm rõ vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác.
Kết cấu bài tiểu luận: nội dung tiểu luận gồm các phần sau:
- Lời mở đầu
- Phần 1: Hêghen và hệ thống triết học của Hêghen
- Phần 2: Phép biện chứng duy tâm Hêghen
- Phần 3: Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra
đời của triết học Mác
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
2
1. Hêghen và hệ thống triết học của Hêghen
1.1 Giới thiệu về Hêghen
Friedrich Hégel (1770 - 1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở
thành phố Stuttgart nước Đức. Sau khi tốt nghiệp đại học Tubingue, ông làm giáo
sư dạy tư trong các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, rồi
làm giáo sư trường đại học Heldelberg và cuối cùng là giáo sư đại học Beclin. Do
chịu ảnh hưởng bởi Senlinh mà Hêghen say sưa nghiên cứu triết học, và ông đã
trở thành nhà triết học – bác học vĩ đại nhất, người hoàn chỉnh nền triết học duy
tâm biện chứng cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác. Hêghen đã để lại cho
nhân loại một di sản triết học đồ sộ và rất giá trị. Các tác phẩm chính của ông là
Hiện tượng luận tinh thần, Bách khoa toàn thư các khoa học triết học (gồm 3
quyển: Khoa học lôgích, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần)…
1.2 Triết Học của Hêghen – Bối cảnh ra đời

Cuối thế kỷ 18, dù chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Châu
Âu như Anh, Pháp, Ý … nhưng ở nước Đức vẫn duy trì chế độ phong kiến lạc
hậu và phân quyền với nhà nước Phổ. Nước Phổ ngoan cố tăng cường quyền lực
để duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát và cản trở đất nước phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Đức, ít về số lượng lại bị phân tán,
yếu về kinh tế, nhược về chính trị nhưng có đời sống tư tưởng tinh thần rất phong
phú. Họ muốn làm một cuộc cách mạng mà lực bất tòng tâm. Còn quần chúng
nhân dân đang chịu sự áp bức nặng nề muốn thực hiện một hành động cách mạng
nhưng lại không có lực lượng lãnh đạo.
Mặt khác, những thành tựu về văn hoá và nghệ thuật cũng như tinh thần
của cuộc cách mạng tư sản Pháp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình cảm và sức
sáng tạo của tầng lớp trí thức Đức. Qua các công trình của mình, tầng lớp trí thực
Đức đã tôn vinh mình, tôn vinh cả dân tộc Đức. Những tác phẩm của họ toát lên
tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất công của xã hội Đức thời đó. Cũng
như giai cấp tư sản Đức, tầng lớp trí thức Đức cũng không đủ sức làm cách mạng
trong hiện thực, vì vậy, họ đã làm cách mạng trong tư tưởng. Và với tinh thần
cách mạng của mình, giai cấp tư sản Đức phải tìm cách nào đó để thể hiện tinh
3
thần đó và đã gửi gắm vào trong triết học cổ điển Đức. Chính những điều kiện
như thế này đã tạo cho triết học cổ điển Đức một nét đặc thù hiếm thấy. Đó là
một nền triết học người Đức phản ánh cuộc cách mạng của người Pháp.
Đồng thời, lúc bấy giờ, các nước phương Tây đã đạt được nhiều thành tựu
rực rỡ về khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Các thành tựu này đã chứng tỏ
sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các
hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn
mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người.
Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó với tiền đề là sự xem xét
thế giới một cách biện chứng, chống lại tư duy siêu hình, có tính nhân bản, đề
cao vai trò lý tính của con người.
Triết học cổ điển Đức đã đóng góp vào di sản văn hoá nhân loại nhiều lý

luận có giá trị, mà một trong những đại diện tiêu biểu xuất sắc nhất chính là
Hêghen. Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế kỉ
18 - đầu thế kỉ 19. Hêghen là nhà triết học - một trong những bộ óc bách khoa
toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử triết học của nhân loại – đã xây dựng hệ thống
triết học duy tâm khách quan biện chứng nổi tiếng. Trong đó, thế giới quan duy
tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung và phép biện chứng là linh hồn
sống động của hệ thống triết học Hêghen. Thành quả to lớn nhất của triết học
Hêghen là Phép biện chứng duy tâm.
2. Phép biện chứng duy tâm Hêghen
Thông thường để xây dựng một hệ thống triết học của mình, thì mỗi triết
gia đều phải xuất phát từ điểm xuất phát triết học riêng biệt. Theo Ph.Ăngghen,
điểm xuất phát đó là vấn đề cơ bản của triết học mà nó được giải quyết trên lập
trường của từng triết gia. Hêghen cho rằng, điểm xuất phát đó có một vị trí vô
cùng quan trọng trong quá trình hình thành nên học thuyết triết học mới. Nó có
thể khắc phục được những hạn chế của các học thuyết đã có từ trước. Chính vì
vậy Hêghen đã xác định điểm xuất phát triết học của ông là sự đồng nhất duy tâm
giữa tư duy và tồn tại hay là ý niệm tuyệt đối. Nói một cách khác Hêghen là nhà
4
triết học duy tâm khách quan, nghĩa là đối với ông tư tưởng của chúng ta không
phải là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan, trái lại những sự vật và hiện
tượng trong thế giới là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối, mà ý niệm này tồn tại
trước khi thế giới xuất hiện.
Chính những quan điểm trên nên trong một trong những tác phẩm chính -
“Hiện tượng luận tinh thần”, Hêghen đã đưa ra bốn nền tảng của triết học mới:
- Một là, Thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối: ý niệm tuyệt đối là sự đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là đấng tối cao sáng tạo ra giới
tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại mà hình thức cao nhất của ý niệm tuyệt
đối là tư duy lôgích.
- Hai là, Thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối: trọng tâm là cái mới liên
tục thay thế cái cũ, nhưng đồng thời cái mới cũng kế thừa những yếu tố hợp lý

của cái cũ. Quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức
“chính đề - phản đề - hợp đề”.
- Ba là, Thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Hêghen coi lịch sử
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối
trên trần gian. Lịch sử nhân loại là do lịch sử của các cá nhân tạo thành nhưng nó
lại là nền tảng quy định ý thức của các cá nhân tạo nên lịch sử.
- Bốn là, Triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối: Hêghen thừa nhận có ba
hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết
học, trong đó triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý
niệm tuyệt đối. Triết học là khoa học của mọi khoa học.
Căn cứ vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối mà Hêghen đã cấu trúc hệ
thống triết học của ông thành Khoa học lôgích (Lôgích học), Triết học tự nhiên
và Triết học tinh thần. Ba bộ phận này tương ứng với ba giai đoạn phát triển của
ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn
tại khác của nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về
với nó. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen được trình bày trong cả ba phần
nói trên, nhưng tập trung nhất là trong Khoa học lôgích – tác phẩm quan trọng
nhất của triết học Hêghen.
5
Lôgích học là bộ phận sinh động nhất của hệ thống triết học Hêghen bởi
vì trong đó phép biện chứng của ông đã được thể hiện một cách đầy đủ và sâu
sắc nhất. Để xây dựng lôgích học mới với tính cách là lôgích biện chứng,
Hêghen đã nghiên cứu toàn bộ quá trình phát triển của lôgích hình thức cổ điển
trước đây. Tuy không phủ nhận ý nghĩa và vai trò của lôgích hình thức trong lịch
sử nhận thức, nhưng Hêghen đã chỉ ra những hạn chế của nó là chỉ nghiên cứu tư
duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa
lôgích học với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên
những phạm trù bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó …Vì vậy
nó chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết học và khoa học.
Trên cơ sở đó Hêghen đã sáng tạo ra một hệ thống lôgích học mới - lôgích biện

chứng nhằm đem lại cho triết học một phương pháp luận mới (phép biện chứng
duy tâm) làm cơ sở cho mọi khoa học.
Hêghen coi lôgích học là khoa học về những phạm trù và quy luật của tư
duy, nhưng tư duy mà lôgích học nghiên cứu là tư duy thuần tuý. Trong tư duy,
mọi cái đối lập đều thống nhất. Lôgích học nghiên cứu tư duy như thế phải là
một hệ thống siêu hình học. Lôgích học – Siêu hình học của Hêghen được xây
dựng dựa trên luận điểm “Cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp
lý”.
Phép biện chứng phải là một linh hồn uyển chuyển của lôgích học, và
lôgích học phải là một cơ thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù
sơ cứng. Do là một cơ thể sống động nên lô gích học luôn đào thải những phạm
trù không thể hiện bản chất sống động của tư duy, đồng thời trang bị cho con
người một phong cách tư duy biện chứng để khám phá ra chân lý, để đi đến tự
do.
Tư tưởng xuyên suốt để xây dựng lôgích học là nghịch lý về sự phát triển.
Nghịch lý này nói rằng, phát triển là quá trình vận động tiến lên phía trước,
nhưng nó cũng chính là sự quay trở về điểm khởi đầu. Vì vậy việc xác định điểm
khởi đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Hêghen đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản
6
xác định điểm khởi đầu của khoa học lôgích, đồng thời cũng là điểm khởi đầu
của nhận thức lý luận nói chung:
- Một là, nguyên tắc về tính khách quan: Cái khởi đầu phải là cái khách quan,
được xác định không dựa vào sự ưa thích của nhà nghiên cứu.
- Hai là, nguyên tắc đi từ cái trừu tượng đến cụ thể trong tư duy, từ đơn giản đến
phức tạp: Cái khởi đầu phải là cái đơn giản nhất, trừu tượng nhất.
- Ba là, nguyên tắc mâu thuẫn: Cái khởi đầu phải chứa mâu thuẫn cơ bản của
toàn bộ hệ thống – đó là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được
coi là nguồn gốc của sự phát triển, có mặt ở mọi sự vật vật chất và tinh thần.
- Bốn là, nguyên tắc thống nhất tính lôgích và tính lịch sử: Hêghen hiểu lôgích
không phải là sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện thân của

lôgích. Cho nên lôgích là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).
Tác phẩm Khoa học lôgích được Hêghen xây dựng dựa trên những
nguyên tắc trên. Qua tác phẩm này, Hêghen cố vạch rõ linh hồn uyển chuyển của
lôgích học là phép biện chứng. Khoa học lôgích cũng như lôgích học của hệ
thống Hêghen gồm ba phần là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và
học thuyết về khái niệm. Ý nghĩa về phát triển của những phạm trù chính là ở
chỗ, trong lôgích học Hêghen đã xuất phát từ tồn tại. Từ sự vận động của những
phạm trù tồn tại mà xuất hiện phạm trù bản chất, ở đây bản chất như là phản đề
hay là sự phủ định của tồn tại. Sau đó, từ vận động của những phạm trù bản chất
mà phát hiện ra khái niệm như là cơ sở sâu sắc hơn của toàn bộ quá trình phát
triển của những phạm trù. Như vậy, khái niệm được biểu hiện ra là hợp đề của
tồn tại và bản chất hay là sự phủ định của phủ định. Có thể nhận thấy rằng sự
phát triển của những phạm trù ở trong học thuyết về tồn tại, bản chất, khái niệm
và ở trong mỗi một phần nhỏ hơn của lôgích học đều được thực hiện theo sơ đồ
tam đoạn thức của Hêghen đề ra. Theo Hêghen, học thuyết về tồn tại và học
thuyết về bản chất trong lôgích học là lôgích khách quan còn học thuyết về khái
niệm là lôgích chủ quan. Trong lôgích khách quan Hêghen chủ yếu nghiên cứu
những phạm trù của tư tưởng, mà chúng đồng thời cũng là những phạm trù của
thế giới tự nhiên vô cơ. Còn trong lôgích chủ quan Hêghen nghiên cứu sự vận
7
động biện chứng của những phạm trù như những hình thức tư tưởng thuần tuý và
sự trưởng thành của đời sống tinh thần, của ý thức của khái niệm trong thế giới
hữu cơ và con người. Như vậy, toàn bộ Khoa học lô gích thể hiện quá trình tự
thân vận động phát triển của ý niệm tuyệt đối trong chính nó và cho nó.
- Đầu tiên, ý niệm tuyệt đối tự tha hóa chính mình trong tồn tại của mình để tự
đem đến cho mình một nội dung. Sự vận động tiếp theo cho phép ý niệm tuyệt
đối khám phá thấy mình trong bản chất, và sau cùng nó quay về với chính mình
trong khái niệm, nghĩa là trở về với cái ban đầu.
- Vận động trở về cái khởi đầu cũng là tiến lên phía trước là tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Hêghen. Luận điểm này không chỉ nói lên bản

chất duy tâm mà còn vạch rõ linh hồn biện chứng của toàn bộ triết học – lôgích
học Hêghen.
- Hêghen đã trình bày một cách xúc tích, rõ ràng ba luận điểm cơ bản của phép
biện chứng khái niệm: Một là, mỗi khái niệm đều nằm trong mối quan hệ, liên hệ
với những khái niệm khác và làm “trung giới” cho nhau. Hai là, mỗi khái niệm
đều có mối liên hệ nội tại, đếu chứa đựng mâu thuẫn nội tại, chúng thâm nhập lẫn
nhau. Ba là, mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình không ngừng vận
động, phát triển và chuyển hoá qua lại lẫn nhau … Xét về bản chất, phép biện
chứng khái niệm của Hêghen là phép biện chứng duy tâm. Do bản tính duy tâm
nên phép biện chứng này đầy tính tư biện, không triệt để và chứa nhiều yếu tố
thần bí.
Trong Triết học tự nhiên, Hêghen trình bày về giới tự nhiên như một
chỉnh thể thống nhất, trong nó mọi sự vật đều có liên hệ hữu cơ với nhau. Tuy
nhiên, Hêghen cho rằng giới tự nhiên là phi biện chứng, bản thân giới tự nhiên
thụ động, không tự vận động, không biến đổi, không phát triển theo thời gian mà
chỉ vận động trong không gian. Ở đây, nhiều chỗ nhà biện chứng tỏ ra tư biện và
bất chấp khoa học; vì vậy, Triết học tự nhiên là bộ phận yếu nhất trong toàn bộ
hệ thống triết học của ông.
Triết học tinh thần là một thành tựu to lớn của triết học Hêghen. Thực chất
đây là học thuyết duy tâm bàn về sự phát triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội.
8
Hêghen lý giải tiến trình phát triển của xã hội theo tinh thần duy tâm như: mọi
người sinh ra về bản tính vốn bất bình đẳng nên sự bất công, tệ nạn xã hội, những
mâu thuẫn trong xã hội đều là các hiện tượng tất yếu, tự nhiên; con người là sản
phẩm của thời đại lịch sử …
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy thế giới quan duy tâm là thế giới
quan xuyến suốt toàn bộ nội dung và phép biện chứng là linh hồn sống động của
hệ thống triết học Hêghen. Phép biện chứng của Hêghen không chỉ là lý luận
biện chứng về sự phát triển của thế giới ý niệm, mà còn là phương pháp biện
chứng nghiên cứu thế giới ý niệm. Thông qua phép biện chứng của ý niệm,

Hêghen đã đoán được phép biện chứng của sự vật, vì vậy, nó là phép biện chứng
duy tâm.
Phép biện chứng của Hêghen là một trong những thành tựu quý giá nhất
của triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Mác nói chung. Lần
đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã tạo ra được một lý luận biện chứng
phát triển với tư cách lôgích học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện
chứng và lôgích học thành một quan niệm thống nhất về lôgích biện chứng. Phép
biện chứng là linh hồn của lôgích học nhờ đó khoa học lôgích trở thành một cơ
thể sống, chứ không phải là những phạm trù khô cứng như lôgích học trước đây.
Công lao của Hêghen so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ, ông đã đưa ra
được một sự phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng
nhất của triết học và đã hình thành nên ba quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở
duy tâm. Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản
Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình
thái vận dụng chung của phép biện chứng đó”. Điều này tạo nên giá trị to lớn
của phép biện chứng của Hêghen, mà về sau chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế
thừa và phát triển.
9
3. Vai trò của Phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của triết
học Mác
Trước hết, có thể nói sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng
của toàn bộ quá trình phát triển của tư tưởng triết học nhân loại. Nó là hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Đó là kết quả của
sự phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa
duy tâm, đồng thời cũng là kết quả của sự phát triển của phép biện chứng trong
cuộc đấu tranh với phép siêu hình trong lịch sử triết học
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là

nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác.
Khi xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan, Hêghen đã trình bày
đầy đủ và chặt chẽ hệ thống các tư tưởng biện chứng theo tinh thần duy tâm.
Xuất phát từ quá trình vận động phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, Hêghen đã
triển khai những quy luật và các phạm trù của phép biện chứng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học và nghiên cứu
triết học Hêghen. Mác là người kế tục và hoàn thiện những tư tưởng tiến bộ của
triết học cổ điển Đức. Mác thời trẻ đã ủng hộ triết học Heghen. Trong bước đầu
hoạt động khoa học chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen đứng trên lập trường chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen và quan điểm dân chủ cách mạng. Với tinh thần phê
phán, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá phép biện chứng trong triết học
Hêghen, làm rõ những đóng góp và hạn chế của ông, thể hiện trong tác phẩm
“Lút vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”.
Trước hết, Ph.Ăngghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của triết học Hêghen,
đó chính là mâu thuẫn giữa phép biện chứng với hệ thống triết học. Nếu phép
biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại,
hệ thống triết học của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống
đã dẫn Hêghen đến việc thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và
thực tiễn lịch sử. Ph.Ăngghen viết: “Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo điều
10
của hệ thống Hêghen đều là chân lý tuyệt đối, và là trái với phương pháp biện
chứng của ông ta, phương pháp đã phá bỏ mọi cái có tính chất giáo điều. Như
thế nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè bẹp bởi sự trưởng
thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó. Và điều mà đúng với nhận thức triết học
thì cũng lại đúng với cả thực tiễn lịch sử nữa”. Theo Ph.Ăngghen, đặc điểm đó
của triết học Hêghen phản ánh sự thoả hiệp của giai cấp tư sản Đức nhỏ bé, yếu
hèn về kinh tế và chính trị không đủ sức làm cuộc cách mạng tư sản như cuộc
cách mạng tư sản Pháp (1789), mà chỉ mong muốn có những cải cách ôn hoà của
giai cấp thống trị.
Song, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra đóng góp to lớn của Hêghen trong sự phát

triển tư tưởng triết học của nhân loại như sau: “Nhưng tất cả những điều đó
không ngăn trở hệ thống Hêghen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn lĩnh
vực của bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó; một sự
phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên. Hiện tượng
học về tinh thần, triết học mà lại được nghiên cứu theo các bộ môn lịch sử, riêng
biệt cả nó; triết học lịch sử, triết học pháp quyền, triết học tôn giáo, lịch sử triết
học, mỹ học, v.v.; - trong tất cả các lĩnh vực lịch sử khác nhau ấy, Hêghen cố
gắng phát hiện ra và chứng minh sự tồn tại của sợi chỉ xuyên suốt, tức là của sự
phát triển và vì Hêghen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một
nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là
một người vạch thời đại”.
Qua đó, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của
Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân
hợp lý” của phép biện chứng. Hai ông đã triệt để phê phán tính chất duy tâm thần
bí trong triết học Hêghen, nhưng đồng thời cũng đánh giá cao tư tưởng biện
chứng của ông. “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay
Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày
một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện
chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng
11
nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau cái vỏ thần bí
của nó”.
Nhưng vì sao với một lý luận duy tâm triệt để, Hêghen lại xây dựng được
một phương pháp tư tưởng xét theo thực chất là chân chính và cách mạng, tuy có
bị sử dụng một cách lộn ngược? Chúng ta biết rằng lập trường duy tâm là lập
trường bảo thủ của những giai cấp áp bức bóc lột: nó quy định tính chất duy tâm
của phương pháp biện chứng Hêghen, nó không thể nào giải thích thực chất biện
chứng của phương pháp ấy. Nghĩa là phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phần
nào mà nó đã nắm được thực sự những hình thái mâu thuẫn và biến chuyển, dù
chỉ có trong phạm vi tinh thần, thì cũng không thể nào xuất phát từ lập trường

duy tâm. Vì nguồn gốc mâu thuẫn, lý do biến chuyển trong tinh thần căn bản vẫn
là ở thực tế khách quan, không phải là ở tinh thần thuần túy. Thực chất tinh thần
là phản ánh thực tế khách quan, vậy nếu không có mâu thuẫn và biến chuyển
trong thực tế khách quan, thì cũng không thể nào có mâu thuẫn và biến chuyển
trong tinh thần. Trên cơ sở tinh thần thuần túy chỉ có thể có hiện tượng tĩnh và
bảo thủ, không thể nào có động và tiến. Nghĩa là tuy phép biện chứng của
Hêghen xuất hiện với một hình thức triệt để duy tâm, nhưng cái mặt chân chính
của nó - nêu mâu thuẫn trong nội bộ sự việc và tính chất tất nhiên của sự biến
chuyển - lại là đối lập với chủ nghĩa duy tâm, và chỉ có thể bắt nguồn từ một cơ
sở duy vật nào đó. Thực ra thì ngược hẳn với lập trường duy tâm, nhờ ảnh hưởng
của phong trào cách mạng đương thời ở Châu Âu, Hêghen đã tiếp thu trong tư
tưởng một nội dung duy vật phong phú, tuy nội dung ấy cũng như phương pháp
đã bị hoàn toàn đảo lộn, do tình trạng lạc hậu của giai cấp tư sản Đức mà Hêghen
đại diện. Ph.Ăngghen nhận định: “Xét tới cùng, hệ thống triết học của Hêghen
chỉ là một chủ nghĩa duy vật lộn ngược chân lên đầu theo kiểu duy tâm”. Trong
tập Bút Ký về Triết Học, Lênin phê đoạn cuối của cuốn Luận Lý Học của
Hêghen như sau đây: “Ý niệm luận lý chuyển thành tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật
đã gần đây rồi. Ph.Ăngghen nói đúng: hệ thống triết học Hêghen là một chủ
nghĩa duy vật lộn ngược”.
12
Vì nội dung tư tưởng Hêghen căn bản xuất phát từ thực tế khách quan, xét
tới cùng thì cũng có tính chất duy vật, mà nội dung ấy lại bao quát hầu như toàn
bộ lịch sử thế giới, Hêghen đã xây dựng được quan điểm tiến hóa và phương
pháp luận lý biện chứng, quan điểm và phương pháp ấy tuy có bị lập trường duy
tâm đảo lộn, nhưng cũng đã làm tiền đề cho chủ nghĩa Mác.
Nhận thức được điều đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng tính chất duy
tâm (tư biện, thần bí) trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết
học Hêghen là hạn chế cần phải vượt qua và phép biện chứng là “hạt nhân hợp
lý” cần phải kế thừa và phát triển. Vì vậy, yêu cầu cấp bách của triết học lúc bấy
giờ là “Cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ

duy tâm thần bí của Hệ thống Hêghen” để xây dựng triết học duy vật biện chứng.
Đây chính là nhiệm vụ nghiên cứu mà C.Mác đặt ra cho mình để thực hiện. C.
Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một cách đơn giản phép biện
chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó mà trước hết là chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một công việc hết sức
phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với phép biện chứng
duy tâm của Hêgen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa
duy vật máy móc và siêu hình. Bằng thiên tài của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm thành phép biện chứng duy vật để nó
đóng vai trò công cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy
con người. Từ đó, hình thành nên triết học Mác.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một
cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy
vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để
xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cách cả chủ nghĩa duy vật
cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật
sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt
cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Triết học Mác đã
khắc phục được sự tách rời phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật, giải quyết
13
được vấn đề mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp trong triết học của
Hêghen, đem lại sự thống nhất giữa phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật. Phép
biện chứng của Mác không chỉ khác biệt cơ bản với phép biện chứng của
Hêghen, mà theo Mác, nó còn đối lập với phép biện chứng ấy, vì đây là phép
biện chứng duy vật, phép biện chứng triệt để. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống
triết học mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy
vật. Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà còn là lý
luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, toàn diện nhất và không
phiến diện nhất về sự phát triển.

Từ những lập luận trên, cần phải khẳng định rằng tiền đề lý luận trực tiếp
cho sự ra đời của triết học Mác là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học
Hêghen. Dù có nhiều hạn chế không nhỏ nhưng thành tựu mà triết học Hêghen
mang lại – phép biện chứng tư duy là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng
của nhân loại. Triết học Hêghen là một cội nguồn của triết học Mác. Cứu lấy
phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí
của Hệ thống Hêghen là một yêu cầu cấp bách của triết học mà sau này Mác đã
thực hiện. Khi cải tạo phép biện chứng duy tâm Hêghen theo tinh thần duy vật
của triết học Phoiơbắc, Mác đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – phép
biện chứng của sự vật – thế giới khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là
hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật,
hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, với tính
cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người
và tư duy. Là đỉnh cao của tư duy nhân loại, phép biện chứng duy vật chính là
công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Không có phép biện chứng của Hêghen thì không có phép biện chứng của
C.Mác và Ph.Ăngghen vào giữa thế kỷ 19. Trong triết học của Mác, phép biện
chứng duy vật, nội dung gồm hai nguyên lý, ba quy luật và sáu phạm trù. Người
đầu tiên khái quát nên những nguyên lý, quy luật và phạm trù đó không phải là
Mác mà chính là Hêghen.
14
KÉT LUẬN
Lịch sử triết học đã cho thấy Hêghen không chỉ là một thiên tài sáng tạo,
mà còn là một nhà khoa học có tri thức bách khoa, nên những tích cực phát triển
của ông mang tính chất vạch thời đại. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là
một thành tựu to lớn, một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại,
mang lại cho lịch sử nhân loại những tư tưởng biện chứng xuất sắc. Nếu như bỏ
đi phần duy tâm thì phép biện chứng của Hêghen trở thành hoàn thiện tuyệt vời.
Chính hình thức duy tâm đã tạo ra những hạn chế nhất định của triết học
Hêghen, song chúng ta phải thừa nhận những đóng góp không nhỏ của Hêghen

với triết học. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã góp phần rất lớn và là tiền
đề lý luận để C.Mác xây dựng phép biện chứng duy vật. Hêghen là người đầu
tiên đã tổng kết toàn bộ lịch sử nhận thức, tìm ra nguyên lý cơ bản của tư duy
biện chứng và xây dựng một cách có hệ thống các quy luật của phép biện chứng
trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm. Và chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã tự nhận là chịu
ơn lớn của Hêghen, ta có thể nói không có triết học cổ điển Đức thì không có
triết học Mác-Lênin, cũng như không có triết học Hêghen thì cũng không có
phép biện chứng duy vật lịch sử.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên ), Triết học, Tiểu ban triết học – Khoa lý luận
chính trị - Trường đại học kinh tế TP.HCM, TP.HCM, 2010
2. Friedrich Engels, Ludwig Fuerbach và sự cáo chung của Triết học cổ điển
Đức. II
3. Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học (Bài giảng dùng cho chuyên ngành giáo
dục chính trị), Đại học sư phạm Thái Nguyên, Thái Nguyên, 2010
4. Các tài liệu tham khảo trên internet:
http://www.viet-studies.info/TDThao/TDThao_HatNhanDuyLy.htm
http://www.husc.edu.vn/khoallct/articles.php?article_id=690
http://www.husc.edu.vn/khoallct/articles.php?article_id=682
http://hocmai.vn/mod/ebook/view.php?id=4803
http://c210dh01.blogspot.com/2011/04/cau-5.html
http://www.webluanvan.com/f12/nghien-cuu-ve-triet-hoc-cua-heghen-19505/
http://my.opera.com/khoahoc.maytinh/blog/2007/11/26/cau8
http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87n_ch%E1%BB%A9ng
http://www.svktqd.com/forum/showthread.php?t=145990
http://phuctriethoc.blogspot.com/2012/06/triet-hoc-co-ien-uc.html
http://www.doko.vn/luan-van/Tu-tuong-triet-hoc-cua-Heghen-va-Phoi-obac-va-
nguon-goc-ra-doi-cua-Triet-hoc-Macxit-34892
http://tuoitrequynhon.com/forum/showthread.php?t=58457

16

Mục lục

  • 1 Tiểu sử
  • 2 Điều kiện kinh tế – xã hội hình thành tư tưởng triết học của Hegel
  • 3 Tư tưởng triết học cơ bản của Hegel
    • 3.1 Về nguồn gốc thế giới
    • 3.2 Biện chứng của Hegel
    • 3.3 Về con người
      • 3.3.1 Khả năng lớn lao của lý trí con người
      • 3.3.2 Trong tương quan với nhà nước
    • 3.4 Về đạo đức
  • 4 Các tác phẩm chọn lọc
    • 4.1 Xuất bản khi Hegel còn sống
    • 4.2 Xuất bản sau khi Hegel mất
  • 5 Tham khảo
  • 6 Đọc thêm
  • 7 Liên kết ngoài
    • 7.1 Âm thanh
    • 7.2 Video
    • 7.3 Hội nghiên cứu
    • 7.4 Sách Hegel trực tuyến

Tiểu sửSửa đổi

Georg Wilhem Friedrich Hegel sinh ngày 27/8/1770 trong một gia đình viên chức Nhà nước tại Stuttgart, thuộc lãnh địa Württemberg, miền tây nam nước Đức. Ông là anh cả trong gia đình có ba anh em.

Hegel được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành ngoan đạo. Mẹ ông đã dạy tiếng Latin cho ông từ rất sớm.

Năm 1776, ông theo học trung học tại trường Stuttgart.

Năm 1788, Hegel theo học tại trường dòng Tin Lành thuộc Đại học Tübinger. Tại đây, ông kết bạn với nhà thơ Friedrich Hölderlin và triết gia trẻ sau này Friedrich Wilhelm Joseph Schelling. Cả ba đã có nhiều chia sẻ lẫn nhau và chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhau.

Từ 1793 – 1797, sau khi tốt nghiệp trường Tübinger, Hegel đi dạy tư tại Bern (Thụy Điển) và Frankurt.

Năm 1799, cha ông qua đời. Được thừa kế di sản từ người cha, ông từ bỏ việc dạy tư.

Năm 1801, Hegel đến Jena và làm việc với tư cách một giảng viên, sau đó trở thành Giáo sư. Tại đây, ông đã hoàn thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông – Hiện tượng học về tinh thần (“Phenomenology of Spirit” – 1807).

Năm 1806, Pháp chiếm đóng thành phố Jena. Tháng 03/1807, Hegel đến Bamberg và làm Biên tập cho tờ báo Bamberger Zeitung.

Tháng 11/1808, Hegel làm Hiệu trưởng một trường dòng ở Nuremberg trong tám năm (đến 1816). Tại đây, ông đã đưa tác phẩm Hiện tượng học về tinh thần vào giảng dạy. Trong thời gian này, ông xuất bản tác phẩm chính yếu thứ hai của ông: Khoa học về Logic (3 tập vào các năm 1812, 1813, 1816).

Năm 1811, ông kết hôn với Marie Helena Susanna von Tucher (1791–1855) năm 1811 và có hai người con.

Năm 1816, Hegel đến Đại học Heidelberg. Ngay sau đó, năm 1817, ông cho xuất bản Đại cương Bách khoa thư về khoa học triết học (The Encyclopedia of the Philosophical Sciences in Outline) dưới hình thức tóm lược triết học của ông để giảng dạy tại Heidelberg.

Năm 1818, Hegel đến dạy tại Đại học Berlin và đến đây làm Chủ tịch Triết học (bỏ trống từ sau khi Fichte qua đời năm 1814). Năm 1821, ông cho xuất bản tác phẩm Triết học pháp quyền (1821). Ông gắn bó ở đây và qua đời vào ngày 14/11/1831 vì bệnh dịch tả.

Nhưng năm tháng cuối đời, Hegel tập trung giảng dạy về mỹ học, lịch sử triết học, triết học tôn giáo, triết học lịch sử. Các ghi chú giảng bài của ông và các ghi chú bổ sung của sinh viên được xuất bản sau khi ông qua đời: Mỹ học (1835 – 1838), Nhữn bài giảng về lịch sử triết học (1833 – 1836), Những bài giảng về triết học tôn giáo (1832), Nhữn bài giảng về triết học lịch sử (1837).

Ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng Hy Lạp (Parmenides), Hegel còn đọc các tác phẩm của triết gia Hà Lan Baruch Spinoza, văn hào Pháp Jean-Jacques Rousseau và các triết gia Đức Immanuel Kant, Johann Gottlieb Fichte, Friedrich Wilhelm Joseph Schelling. Dù ông thường xuyên bất đồng với những triết gia này nhưng ảnh hưởng của họ trong các tác phẩm của ông là rất rõ ràng.

Phép biện chứng của triết học Hêghen là:

02/11/2020 2,274

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Phép biện chứng của triết học Hêghen là:
A. Phép biện chứng duy tâm chủ quan. B. Phép biện chứng duy vật hiện đại. C. Phép biện chứng ngây thơ chất phác. D. Phép biện chứng duy tâm khách quan.
Câu hỏi trong đề: Bộ câu hỏi trắc nghiệm triết học Mác Lênin có đáp án số 1
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: D

Chu Huyền (Tổng hợp)

Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.