Tại sao tập luyện TDTT mở rộng và tăng cường mối quan hệ và phát triển kinh tế

Tác dụng của tập luyện Thể dục thể thao

14/01/2020 08:15 19455 lượt xem

TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO

Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946) đưa ra quan điểm sức khỏe là “Trạng thái toàn diện về thể chất, tinh thần và sự thịnh vượng xã hội” (a complete state of physical, mental and social prosperity). Định nghĩa này cho thấy quan điểm sức khỏe không chỉ là không bệnh tật. Trạng thái khỏe mạnh không phải là bất biến, một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm tăng tình trạng sức khỏe và cũng có những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập luyện TDTT là những hoạt động có lợi cho sức khỏe.

Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến cuối thế kỷ 19 với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có nghĩa: “Một tinh thần khỏe mạnh trong một cơ thể cường tráng” đã hình thành một quan điểm mới về tập luyện TDTT khi những lợi ích của TDTT được thừa nhận. Quan điểm này ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn khi hiện tượng cơ giới hóa và tự động hóa của xã hội xuất hiện, có nghĩa là các hoạt động thể chất trong lúc lao động bị giảm sút và lối sống ít vận động bắt đầu biểu lộ một số tác hại.

Tham gia vào tất cả các hoạt động mà cơ thể phải tiêu hao năng lượng nhiều hơn trạng thái nghỉ ngơi, vận động thể chất bao gồm không chỉ là thể thao mà còn là các trò chơi vận động, đi bộ, khiêu vũ, bơi lội…

Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò, lợi ích của tập luyện TDTT đối với sức khỏe (thể chất và tinh thần) con người, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.

1. Kéo dài tuổi thọ

Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của TDTT đến việc kéo dài tuổi thọ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy việc tham gia hoạt động TDTT ở đại đa số các môn đều có thể làm tăng tuổi thọ. Thí dụ: Theo Bouchard (1994): các VĐV môn chèo thuyền ở ĐH Cambridge và Oxford, cũng như VĐV trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người không tập luyện. Một nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu sinh viên ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì tuổi thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường.

2. Phòng chống bệnh tật

Báo cáo của WHO (2002, 2003), ƣớc lượng trên toàn cầu, không vận động thể chất là nguyên nhân chính gây ra 1.9 triệu ngƣời chết hàng năm, trong đó có 250.000 người Mỹ. Lối sống ít vận động ở Mỹ là nguyên nhân gây bệnh, chiếm 18% các ca bệnh tim mạch, 22% các ca ung thư ruột kết, tiêu tốn 3.5% chi phí dành cho sức khỏe toàn liên bang (US Department of Health,1996). Ở Canada, 21.000 trường hợp chết yểu do không vận động, tiêu tốn 2.1 tỷ USD trong năm 1999, chiếm 2.5% quỹ chăm sóc sức khỏe (Katzmarzyk et al., 2000). Rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy cái giá phải trả cho lối sống ít vận động và lợi ích của tập luyện TDTT, dẫn đến việc thúc đẩy mạnh các chương trình hoạt động TDTT ngày càng rộng lớn trên thế giới.

Béo phì: Cho dù lượng calory tiêu thụ trung bình không tăng trong thế kỷ 20 nhưng số lượng người bệnh béo phì lại tăng cao ở các nước phát triển. Năm 1850, 1/3 năng lượng được dùng trong lao động ở các nhà máy và nông trường, trong khi ước lượng hiện nay chỉ khoảng 1%. Lối sống đô thị hóa, sử dụng thường xuyên xe hơi, ít đi bộ, thời gian ngồi trước tivi ngày càng tăng, lười vận động, ít tập TDTT… là những yếu tố góp phần vào việc tăng số lượng người béo phì ngày nay (Prentice & Jebb, 1995).

Bệnh tim mạch: Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn chức năng vận động là các bệnh tim mạch. Từ 1953, nghiên cứu của Morris (1953) về các nhân viên làm việc tại công ty xe bus London cho thấy các tài xế bị bệnh tim mạch gấp 2 người bán vé (có đi lại). Đây là lần đầu tiên lợi ích của hoạt động vận động đƣợc chứng minh bằng tỉ lệ bệnh tim mạch. Các nghiên cứu tiếp tục đƣợc tiến hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người, Morris khẳng định tỉ lệ bệnh tim mạch xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1% so với 6.9% ở nhóm không TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những người có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64% so với nhóm tham gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978).

Phân tích các kết quả nghiên cứu tại Mỹ, nghiên cứu tất cả các yếu tố liên quan đến bệnh tim mạch trên 12.866 ngƣời từ 35 đến 57 tuổi, cho thấy: tỉ lệ tử vong ở nhóm tập luyện TDTT 45phút/ngày thấp hơn đáng kể nhóm chỉ tập 15 phút/ngày (Leon & Connett, 1988). Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy rõ tập luyện TDTT sẽ làm giảm nguy cơ bệnh tật, đặc biệt là tim mạch. Vận động thể chất có xu hướng làm giảm triglyceride và cholesterol (tác nhân gây nghẽn động mạch), nâng cao độ nhạy insulin, nâng cao chức năng cơ tim, giúp máu lưu thông đến tim dễ dàng và giúp hạn chế sự hình thành máu cục, phòng chống bệnh loãng xương và tiểu đường, làm giảm căng thẳng và lo âu.

Bệnh Parkinson: Một nghiên cứu của trường ĐH Harvard trên 48.000 ngƣời đàn ông, kết quả cho thấy: hầu hết những ai vận động ít thì phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh và phát triển bệnh kinh phong (Parkinson) 50% so với những người thường xuyên vận động.

Ung thư tuyến tiền liệt: Một nghiên cứu kéo dài 14 năm tại Đại học Harvard nhận thấy rằng những ngƣưi nào trên 65 tuổi thực hiện việc chạy bộ, đạp xe hay đi bơi ít nhất 3 lần/tuần thì rủi ro mắc bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 70% so với người không tập luyện TDTT.

Bệnh giảm trí nhớ: Một nghiên cứu ở ĐH Honolulu cho thấy: những người đi bộ ít hơn 400 mét/ngày hầu như có nguy cơ giảm trí nhớ gấp 2 lần so với người có vận động thƣờng xuyên.

3. Hình thành nhân cách, đặc biệt là đối với trẻ em

Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển đƣợc tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp người tập có đƣợc sức khỏe tốt, từ đó hiệu quả học tập, công tác và tham gia các hoạt động ở nhà trường, xã hội đạt hiệu quả cao hơn. Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi phải có tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực... Đây chính là quá trình giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách trẻ em, giúp người tập có một nếp sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học.

Trong quá trình tập luyện và thi đấu TDTT, nếu thất bại, ngƣời tập sẽ học đƣợc cách chấp nhận thất bại và tìm cách vượt qua, có nghĩa là đang học cách để thành công. Ngoài ra, quá trình tập luyện thể thao sẽ tạo cho người tập phong cách riêng, không còn mắc cở, rụt rè trƣớc đám đông, mạnh mẽ trong thể hiện năng lực... chính phong cách này sẽ góp phần giúp người tập tự tin hơn trong cuộc sống.

4. Cải thiện sức khỏe thể chất

Tổng kết nhiều nghiên cứu cho thấy tập luyện TDTT có thể cải thiện hoạt động các hệ thống cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa…, nâng cao khả năng thích nghi của cơ thể đối với môi trường bên ngoài.

Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng khoa học sẽ làm cho hệ cơ xương phát triển hài hòa. Cơ bắp nở nang, rắn chắc, tạo ra vẻ đẹp hình thể và dáng đi khỏe mạnh của con người. Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, năng lực mềm dẻo và linh hoạt của cơ tăng lên.

Tập luyện TDTT với lượng vận động phù hợp có tác dụng kích thích tích cực đến sự phát triển chiều dài và chu vi của xương, nói cách khác, có tác dụng kích thích phát triển chiều cao và chất lượng xương đối với thiếu niên (Mc Ardle, 2000). Những môn như chạy, đi bộ, nâng tạ đều có thể giúp phòng tránh loãng xương khi lớn tuổi.

Tập TDTT sẽ làm nhịp tim tăng lên, tăng cường sức co bóp của cơ tim, dung lượng máu trong tim tăng lên, tỷ lệ hấp thụ oxy của cơ thể tăng lên. Sự tăng cường hoạt động của tim sẽ giúp làm chậm quá trình suy thoái của tim, giảm tỷ lệ sơ cứng mạch máu, huyết áp cao.

Tập TDTT giúp hô hấp có phản xạ thở sâu, thở nhanh hơn, tăng hoạt động của các cơ hô hấp, tăng lượng oxy cung cấp cho tế bào, giúp cơ thể khỏe mạnh hơn do khả năng chịu đựng sự mệt mỏi tăng lên.

Tập TDTT đều đặn có khả năng tăng hàm lượng hồng cầu trong máu, sức đề kháng cơ thể cũng tăng lên, ít bệnh tật hơn.

Tập TDTT sẽ cải thiện kỹ năng vận động như đi, đứng, chạy, nhảy, leo trèo… giúp ích rất nhiều cho các vận động sinh hoạt, làm việc hàng ngày.

5. Làm tinh thần sảng khoái, giảm stress

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): "Sức khỏe tâm thần là một phần không thể tách rời của sức khỏe; Thực vậy, sẽ không có sức khỏe nếu không có sức khỏe tâm thần". Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những người có sức khỏe tâm thần kém tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim và đột quỵ. Hơn nữa, các nghiên cứu đã liên hệ sức khỏe tâm thần kém với phân biệt đối xử về giới, không hòa nhập xã hội, tăng nguy cơ bạo lực và tội phạm và một lối sống không lành mạnh.

Trong cuộc sống hiện đại, với cường độ làm việc căng thẳng, nhiều áp lực trong cuộc sống, ngày càng có nhiều người bị stress. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyệnTDTT là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải tỏa stress nhanh và hiệu quả nhất, đặc biệt trong chữa bệnh trầm cảm. Tập luyện TDTT thường xuyên, kể cả chỉ 30 phút mỗi ngày, cũng có tác dụng làm bớt nóng nảy, buồn rầu, người tập cảm thấy sảng khoái, lạc quan, yêu đời hơn. Những thay đổi về tâm lý này có thể xảy ra do sự thay đổi của endorphin, tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.

Tập luyện thể thao giúp tăng cường sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh, đƣợc gọi là endorphins, giúp sảng khoái tinh thần. Tập luyện còn giúp làm dịu những căng thẳng hằng ngày và chúng ta học cách ứng phó tốt hơn với những nguyên nhân gây stress. Một số môn thể thao tốc độ sẽ giúp chuyển hướng sự tập trung của người tập ra khỏi những rắc rối, khó xử trong cuộc sống. Thực tế cho thấy người chơi thể thao thường xuyên không chỉ có thể lực tốt mà còn kiểm soát cảm xúc tốt, cũng nhƣ suy nghĩ rõ ràng hơn trong mọi công việc.

Nghiên cứu của ĐH California – Berkeley tháng 2/2014 cho thấy căng thẳng có thể gây ra các bệnh lý tinh thần. Tuy nhiên, có nhiều cách để chúng ta có thể giảm hoặc xử lý stress. Bộ Y tế Mỹ khuyên người lớn nên tập thể dục cường độ vừa phải ít nhất 150 phút mỗi tuần hoặc tập cường độ mạnh 75 phút mỗi tuần. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy tập thể dục ngoài trời có thể hiệu quả ngang với thuốc chống trầm cảm trong điều trị trầm cảm và lo âu mức độ nhẹ và vừa.

6. Cải thiện chức năng não bộ

TS. John Ratey, một trong những nhà tâm lý hàng đầu của ĐH Y khoa Harvard, cho rằng: chính tập luyện TDTT, chứ không phải dầu cá hay trò chơi sudoku, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất giúp chúng ta luôn lạc quan và tin tưởng vào trí tuệ của bản thân. Thường xuyên tập luyện TDTT không chỉ tốt cho cơ thể mà còn giúp cải thiện não bộ, tăng cường khả năng học hỏi, tăng trí nhớ, giảm stress, giảm sự lão hóa của não bộ. Kết quả nghiên cứu của Ratey cho thấy: càng hào hứng với tập luyện thì não bộ càng làm việc hiệu quả. Quá trình luyện tập sẽ huy động tối đa các hợp chất trong máu mà khi được vận chuyển tới não bộ sẽ hỗ trợ tối đa cho các tế bào nơron. Một trong những hợp chất hóa này là protein BDNF, được xem là có tác động rất lớn tới sự phát triển của não bộ. Nghiên cứu này cũng cho thấy việc luyện tập có thể làm đảo ngược sự tác động của tuổi tác đối với não bộ. Bƣớc vào tuổi 40, thể tích não bộ sẽ giảm 5% sau từng thập kỷ. Điều này xảy ra do các khớp thần kinh, vùng giữa các tế bào não có nhiệm vụ truyền các tín hiệu thần kinh, bị mòn thậm chí là bị đứt. Các mao mạch dẫn truyền dưỡng chất cho não cũng sẽ co hẹp cùng với tuổi tác, giảm lưu lượng máu tới não và kết quả là làm suy giảm các chức năng não bộ. Đây chính là nguyên nhân vì sao càng lớn tuổi càng hay quên. Tập luyện TDTT sẽ khích thích một loạt các phản ứng có tính chất trẻ hóa và kích thích các tế bào não, bảo vệ não bộ khỏi những tác hại của stress và lão hóa.

7. Hình thành kỹ năng sống

Quá trình tập luyện TDTT là quá trình làm việc, giao tiếp với một tập thể gồm huấn luyện viên, giảng viên, đồng đội, người tập chung. Qua đó, người tập có thể học hỏi những kỹ năng sống có giá trị như: Đưa ra quyết định; Giải quyết vấn đề; Tư duy sáng tạo; Tư duy phản biện/sáng suốt; Giao tiếp hiệu quả; Mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân; Tự ý thức về bản thân/Chánh niệm; Quyết đoán; Đồng cảm; Tâm xả; Đối phó với căng thẳng, tổn thương và mất mát; Khả năng phục hồi tâm lý; Giao tiếp; Làm việc nhóm; Lãnh đạo…. Sự tự tin sẽ tăng lên khi giành chiến thắng và đạt đƣợc mục tiêu. Trong môi trường TDTT, chúng ta sẽ có cơ hội gặp gỡ, kết bạn với những ngƣời có cùng sở thích, có điều kiện có thêm nhiều bạn mới, mở rộng mối quan hệ xã hội./.

Tin bài: Lê Viết Vinh - Tổ GDTC & QPAN


môn Giáo dục thể chất ẢNH HƯỞNG CỦA THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ THỂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.94 KB, 5 trang )

Bài thu hoạch bộ môn Giáo dục thể chất
ẢNH HƯỞNG CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ THỂ
Sức khoẻ là một trạng thái thoải mái đầy đủ về thể chất tinh thần và
xã hội. Sức khoẻ không chỉ bó hẹp vào nghĩa là không có bệnh tật hay
thương tật.
* Thể dục thể thao gồm giáo dục thể chất và thể thao
I. THỂ THAO
1. Định nghĩa thể thao : có hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp: Thể thao là một hoạt động thi đấu được hình thành
trong xã hội loài người, qua đó con người so sánh khả năng thể
chất, tinh thần với nhau.
- Nghĩa rộng: Tức là bao gồm hoạt động thi đấu, là sự tập luyện
chuẩn bị đặc biệt cho thi đấu, là mối quan hệ đặc biệt giữa người
với người trong thi đấu cùng với ý nghĩa và thành tích thi đấu gộp
lại chung.
- Môn được coi là thể thao thì phải có thi đấu. Những môn có thi đấu
phải tổ chức giải, liên đoàn, điều lệ (luật), những môn không thi
đấu gọi là thể dục.
2. Phân loại thể thao :
- Gồm có thể thao thành tích cao và thể thao quần chúng.
+ Thể thao thành tích cao có mục đích trực tiếp là thành tích tuyệt
đối. Hoạt động thể thao thành tích cao chiếm một giai đoạn lớn
trong cuộc đời vận động viên. Đối với họ hoạt động thể thao
thành tích cao chiếm ưu thế trong chế độ sống. Cuộc sống vận
động viên cấp cao phải được tổ chức đặc biệt phù hợp với hệ
thống tập luyện và thi đấu.
+ Thể thao quần chúng (Thể dục) khác với thể thao thành tích cao
ở mức độ thành tích và thực tế. Thể thao thành tích cao lấy kỷ
luật nhân loại, kỷ luật châu lục, khu vực là thành tích thi đấu.
Trong khi đó, thành tích của thể thao quần chúng được xác định


phù hợp với khả năng cá nhân. Vấn đề cơ bản của thể thao quần
chúng là sức khoẻ, là trình độ chuẩn bị thể lực chung.
II. GIÁO DỤC THỂ CHẤT
1. Định nghĩa giáo dục thể chất :
- Là một quá trình sư phạm, một loại hình giáo dục nên nó là một
quá trình có tổ chức, có mục đích và có kế hoạch để truyền thụ
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Có nghĩa giáo dục thể chất cũng
như các loại hình giáo dục khác, là một quá trình sư phạm với đầy
đủ đặc điểm của nó. Vai trò chủ đạo của nhà sư phạm là tổ chức
hoạt động phù hợp với học sinh, sinh viên.
2. Phân loại giáo dục thể chất : có thể chia làm hai mặt tương đối
độc lập: dạy học động tác và giáo dục các tố chất thể lực
 Dạy học động tác là nội dung cơ bản của giáo dục thể chất. Đó
là quá trình trang bị kĩ năng, kĩ xảo cơ bản cần thiết cho cuộc
sống và những tri thức chuyên môn.
 Giáo dục các tố chất thể lực: động tác hợp lý với sức diễn tố
chất vận động, đảm bảo sức diễn năng lực vận động sức mạnh,
sức nhanh và sức bền.
Như vậy gió dục thể chất là một loại giáo dục có nội dung đặc
trưng là dạy học động tác và giáo dục tố chất thể lực của con
người. Việc dạy học động tác và phát triển tố chất thể lực có liên
quan chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau hay thậm chí chuyển lẫn nhau
nhưng không bao giờ đồng nhất, giữa chúng có mối quan hệ khác
biệt trong các giai đoạn phát triển thể chất. Trong hệ thống giáo
dục, nội dung đặc trưng giáo dục thể chất được gắn liền với trí dục,
đức dục, mĩ dục và giáo dục lao động. Sự phát triển thể chất bị ảnh
hưởng do bẩm sinh, di truyên, môi trường, giáo dục.
III. LỢI ÍCH VÀ TÁC DỤNG CỦA THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ THỂ
- Chúng ta thường nghĩ, luyện tập thể dục thể thao đơn giản chỉ là

để thư giãn và rèn luyện cơ bắp. Tuy nhiên, thực tế còn cho thấy
luyện tập thể dục thể thao còn có nhiều lợi ích khác nữa. Rèn luyện
thể thao có thể thúc tiến quá trình trao đổi chất ở các cơ quan, tổ
chức trong cơ thể, từ đó hoàn thiện nâng cao chức năng các bộ
phận, cơ quan trong cơ thể. Vì chưa biết đến tác dụng của việc tập
luyện thể dục thể thao nên nhiều người chưa coi trọng việc tập
luyện thể dục thể thao.
- Cái quý của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt
sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ được phát triển tốt hơn. Thể dục thể
thao giúp bạn có sức khỏe tốt hơn, từ đó có thể học tập và tham gia
các hoạt động hiệu quả hơn. Khi tham gia thể dục thể thao bạn phải
có tính kỉ luật cao hơn, có tinh thần trách nhiệm trước tập thể, tác
phong nhanh nhẹn… Chính vì vậy, tham gia tập luyện thể dục thể
thao thường xuyên, có kế hoạch sẽ giúp bạn có một nếp sống lành
mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học.
- Lợi ích và tác dụng
+ Hệ vận động: gồm cơ và xương. Các hoạt động thông thường
của con người thường dựa vào hệ vận động. Thường xuyên tập
luyện thể dục thể thao có thể tăng cường các chất của xương,
tang cường sức mạnh của cơ hay tang cường tính ổn định và
biên độ hoạt động của các khớp từ đó mà năng lực vận động của
con người có thể được nâng lên, xương và khớp được cấu thành.
Xương trong cơ thể là một kết cấu kiên cố nó bao gồm hơn 200
chiếc xương, những chiếc xương lại cấu thành khung xương.
+ Hệ hô hấp: gồm phổi, khí quản và mũi. Phổi là nơi trao đổi khí
còn lại đều là đường hô hấp. Cơ thể trong trạng thái yên tĩnh thì
mỗi phút chúng ta đòi hỏi khoảng 0,25 – 0,3ml khí. Như vậy chỉ
cần 1/20 số phế nang trong phổi hoạt động thì có thể đáp ứng
được. Nếu cứ như vậy trong thời gian dài thì những phế nang
không được sử dụng sẽ bị thoái hoá đi. Từ đó các chức năng của

hệ thống hô hấp giảm đi mạnh mẽ và rất dễ mắc bệnh. Chức
năng của hệ hô hấp mạnh hay yếu phụ thuộc bởi năng lực CO
2
của cơ thể. Khi tập luyện thể dục thể thao cơ thể đòi hỏi nhiều
hơn về O
2
. Chính vì vậy mà tần số hô hấp tang lên. Để đáp ứng
các nhu cầu trên, các cơ quan của hệ hô hấp bắt buộc phải cải
thiện năng lực làm việc của bản thân. Do vậy, tiến hành luyện
tập thể dục thể thao trong thời gian dài có thể nâng cao năng lực
hấp thụ O
2
, từ đó nâng cao chức năng cơ quan hệ hô hấp, cải
thiện cơ quan hệ thống hô hấp.
+ Hệ tuần hoàn: Tập luyện thể dục thể thao liên tục trong thời gian
dài, nhịp tim có xu hướng giảm, giảm tần số mạch, làm kéo dài
thời gian tâm trương, giảm nhu cầu sử dụng oxy của cơ tim,
giảm hoạt động của tim. Ở những người thường xuyên tập luyện
thể dục thể thao huyết áp động mạch có xu hướng giảm, giảm
huyết áp là biểu hiện của phản ứng thích nghi sinh lý mà nguyên
nhân là do giảm sức cản ngoại biên do tăng cường tính đàn hồi
của thành mạch. Như vậy, tập luyện thể dục thể thao là một
phương pháp hữu hiệu để chữa trị bệnh cao huyết áp.
Tập luyện thể dục thể thao thường xuyên có thể kìm hãm và làm
thuyên giảm sự phát triển của xơ vữa động mạch ở những bệnh
nhân mạch vành. Đi bộ, chạy, bơi có tác dụng tăng cường hoạt
hoá sự trao đổi mỡ trong cơ thể, giảm hàm lượng cholesterol có
hại (thường gây nghẽn động mạch) và tăng lượng cholesterol có
lợi . Cholesterol có lợi có tác dụng liên kết với cholesterol trong
máu và vận chuyển về gan để xử lý, do vậy tăng hàm lượng

cholesterol đồng nghĩa với việc giảm lượng cholesterol máu và
giảm xơ vữa động mạch, giảm các biểu hiện của bệnh mạch
vành. Song để đạt được hiệu quả đó phải tập luyện thể dục thể
thao với chương trình định sẵn từ 6 tháng đến hàng năm.
Đi bộ nhanh và chạy cự ly dài là những bài tập có hiệu quả giảm
trọng lượng cơ thể và dễ thực hiện. Trong khi đi bộ hoạt động
của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp tăng lên, toàn bộ hệ cơ tham gia
hoạt động, do đó có ảnh hưởng rất tốt đối với các quá trình trao
đổi chất. Để nâng cao hiệu quả, nên tập với liều lượng tăng dần
để cơ thể thích nghi với lượng vận động mới, sau đó có thể
chuyển sang chạy.
+ Hệ tiêu hoá: Dạ dày và ruột là những cơ quan chủ yếu của hệ
tiêu hoá trong cơ thể con người. Năng lực tiêu hoá của dạ dày
tốt có thể có những ảnh hưởng tốt với sức khoẻ con người.
Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao chi nâng cao được
công năng tiêu hoá của dạ dày và ruột, tang cường sức khoẻ cho
gan đồng thời có tác dụng điều trị và ngừa một số bệnh trong hệ
tiêu hoá.
+ Hệ thần kinh: hệ thần kinh khống hế các loại hành vi của con
người. Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao sẽ làm nâng
cao năng lực làm việc của các tế bào thần kinh ở đại não, nâng
cao tính hoạt động của hệ và sự hung phấn của hệ thống thần
kinh. Sau khi cơ thể nhận được các tín hiệu kích thích thông qua
các nơ-ron thần kinh sẽ dẫn truyền đến hệ thống trung khu thần
kinh. Sau đó hệ thống trung khu thần kinh phân tích tổng hợp
thì các xung đông hung phấn sẽ được dẫn truyền đến các cơ
quan mà nó tạo ra các phản ứng.

1. Khái niệm về văn hóa

Muốn hiểu được TDTT (còn gọi là văn hóa thể chất), trước tiên cần hiểu đúng khái niệm văn hóa, một hệ thống tập hợp lớn hơn, bao gồm cả TDTT, mới có thể tạo cơ sở mở đầu chung về phương pháp luận để đi sâu vào TDTT, tìm ra những cái chung và riêng (ở mức cần thiết) so với các bộ phận văn hóa khác.

Ngay từ thời Phục hưng, thuật ngữ văn hóa đã được hiểu là một hoạt động, một lĩnh vực tồn tại thực sự của con người, mang “tính người”, đối lập với “tính tự nhiên”, “tính động vật”, phát triển phù hợp với bản chất của họ. Nó trước hết là tất cả tài sản, thành tựu về tinh thần và vật chất, kể cả thể chất của từng con người, của xã hội, xuất hiện trong quá trình phát triển lịch sử, được xác định như một “thiên nhiên thứ hai”, được cải biến, nhân hóa qua nhiều thế hệ. Trong quá trình này, con người vừa là chủ thể lẫn khách thể. Nói khái quát hơn, thuật ngữ này dùng chỉ đặc trưng vật chất và tinh thần của một thời đại (ví dụ như văn hóa cổ đại), của một dân tộc (như văn hóa Việt Nam), của một phạm vi hoạt động sinh sống hoặc sáng tạo (văn hóa lao động, văn hóa nghệ thuật, văn hóa thể chất – TDTT…). Văn hóa bao gồm những thành tựu vật chất của hoạt động con người (máy móc, công trình xây dựng, nhà thi đấu…), kết quả của nhận thức (tác phẩm nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức, những luật lệ ngày càng chính xác, công bằng trong thi đấu thể thao…), những khả năng được hiện thực hóa trong đời sống (sự hiểu biết, tổ chức xã hội, phong tục, tập quán, trình độ thưởng thức, thành tích thể thao…). Mỗi một hình thái kinh tế xã hội được xác định bởi một kiểu văn hóa. Văn hóa thay đổi do sự chuyển đổi của một hình thái kinh tế – xã hội, đồng thời kế thừa nhiều giá trị văn hóa của quá khứ.

Trong điều kiện xã hội có giai cấp, song song với văn hóa của giai cấp thống trị, còn có văn hóa của những người lao động bị trị, mang những yếu tố dân chủ và nhân đạo. Ở Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, chúng ta đang từng bước xây dựng nền văn hóa mới, có nội dung XHCN và tính chất dân tộc.

Tiếc rằng lâu nay, chúng ta thường chỉ chú ý nhiều đến văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật…) mà còn coi nhẹ văn hóa thể chất.