Vì sao nguyễn huệ sợ nhà nguyễn trả thù

Tại sao vua Gia Long 'quá hiếu sát' nhà Tây Sơn?

Vua Gia Long (Nguyễn Ánh) không hề che đậy sự tàn bạo, hiếu sát nhà Tây Sơn, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".

Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn Ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông. Cuộc báo thù này có hai mục đích: Thứ nhất, để trả thù cho những việc Tây Sơn gây ra với gia tộc và bản thân Nguyễn Ánh trước kia, vua cho phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân...; và thứ hai, dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới.

Sau khi tạm ổn định tình hình, ngày 2 tháng 5 Nhâm Tuất (1802), Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (chưa chính thức), lấy niên hiệu Gia Long, nguyên niên ở Kinh Thành Phú Xuân và sau đó đưa đại quân ra Bắc để tiêu diệt vua Tây Sơn Bảo Hưng. Ngày 23 tháng 6 năm Nhâm Tuất, vua Gia Long vào thành Thăng Long, thanh toán xong triều Tây Sơn. Mùa đông năm Nhâm Tuất, sau khi bắt sống vua Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, xa giá vua Gia Long từ Thăng Long trở về Phú Xuân và “tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn…

Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục. Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt; chưa kể 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì.

Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi, đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối.

Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn nên xin được Nguyễn Ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết... Các quan văn khác của Tây Sơn như: Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về. Riêng Ngô Thì Nhậm bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết.

Bộ luật Gia Long thời Nguyễn có điều luật 223: Phàm kẻ mưu phản và đại nghịch và những kẻ cùng mưu, không phân biệt thủ phạm hay tòng phạm đều lăng trì xử tử (róc thịt, phanh thây, tùng xẻo)… Lăng trì là một trong những hình phạt dã man được dùng rộng rãi ở thời xưa, chính thức bỏ từ năm 1905. Phạm nhân vô cùng đau đớn vì bị xẻo từng miếng thịt trên người, đao phủ phải giữ cho tử tội không chết nhanh, để biết đớn đau theo từng nhát xẻo và đủ số nhát xẻo thì tội nhân mới được chết.

Điều 225 của Bộ luật Gia Long cũng quy định những ai viết câu yêu thư, yêu ngôn đều bị tru di tam tộc - là một hình phạt tàn bạo thời phong kiến. Tru và Di đều mang nghĩa giết sạch, tam tộc là ba họ gồm: họ cha, họ mẹ, họ vợ. Hình phạt tru di tam tộc được áp dụng cho những tội phạm khi quân, phản quốc. Khi bị kết án tru di tam tộc, những người trong cả 3 họ của người phạm tội, từ trẻ đến già đều bị diệt. Họ nhà mẹ và họ nhà vợ, bao gồm cả họ hàng của mẹ kế và vợ lẽ cũng bị tru di. Nếu mẹ kế và những người vợ lẽ của phạm nhân đã qua đời, trước khi kết án, thì họ hàng của họ vẫn phải thụ án.

Trong lịch sử phong kiến, khi xảy ra án tru di tam tộc, thường có nhiều người với họ khác nhau bị giết một lúc. Nhiều người có quan hệ họ hàng khá xa với phạm nhân cũng bị chết cùng. Những người cùng họ của phạm nhân, may mắn trốn thoát nơi xa, mai danh ẩn tích, đổi sang họ khác. Sự truy nã của triều đình phong kiến đối với những người này kéo dài nhiều năm và chỉ dừng lại khi có lệnh cải chính chính thức của triều đình. Vì thế có người sau nhiều năm trốn tránh vẫn bị bắt giết.

Cũng theo Bộ luật Gia Long, hình phạt voi giày áp dụng cho các tử tội, thường là phạm tội nặng với triều đình. Voi sử dụng để hành quyết thường là voi châu Á được huấn luyện thuần thục. Tội phạm thường bị voi dùng chân dẫm lên cơ thể, dùng vòi cuốn đưa lên cao và quật xuống đất. Người ta điều khiển voi làm cho nạn nhân chết nhanh hoặc chết từ từ để hành hạ...

Vua có lạm sát?

Minh chứng là với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm, nhưng khi đã lấy được thiên hạ năm 1802, vua vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh.

Theo Đại Nam thực lục chính biên, trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: "Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời".

Tiếp đến, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi là Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, được vua Gia Long tha mạng và ra chỉ dụ rằng: "Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta".

Năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?”.

Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Rõ là tùy theo từng người, từng trường hợp mà vua quyết định tha hay phạt... Vậy gốc rễ khiến vua ra tay cực kỳ tàn bạo với nhà Tây Sơn là bắt nguồn từ đâu?

Nguồn: Đất Việt

Chuyện vua Gia Long tàn sát họ Tây Sơn

Thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương rằng: “Hễ ai là bà con tộc thuộc của Tây Sơn ra khai báo, sẽ được trọng dụng bổ làm quan”. Vậy, thực hư chuyện này thế nào?

Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của PGS.TS sử học Đỗ Bang, vụ tàn sát dòng dõi Tây Sơn của Vua Gia Long được các bô lão truyền rằng: Sau khi nghe chỉ dụ của nhà vua, các tộc thuộc Tây Sơn ở Hưng Nguyên (tỉnh Nghệ An) tưởng thật, đã ra khai báo, nhưng không ngờ tất cả đều bị bắt và bị giết. Hiện nay, có 24 gia đình gốc họ Hồ đều có người chết trong ngày đại tang Tây Sơn, kỵ vào ngày 20 tháng 10 âm lịch hàng năm.

Những người còn sống được do lẩn trốn sang các làng khác, có người phải đổi thành họ Nguyễn mới tránh được sự truy nã của vua quan triều Nguyễn. Ở xã Hưng Thái (huyện Hưng Nguyên) tương truyền có khu mộ tổ của anh em Tây Sơn.

Sau khi lên ngôi, Hoàng đế Gia Long đã “tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn

Lăng trì (còn gọi là tùng xẻo, xử bá đao) là hình thức xử tử tàn độc, dã man và ghê rợn bậc nhất thời trung cổ. Phương pháp tử hình này cũng được các vua chúa Việt Nam dưới triều Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức thi hành. Trong Bộ luật Gia Long thời Nguyễn xếp lăng trì vào loại “cực hình ngoài mức cực hình” và áp dụng với những kẻ mang các tội sau: mưu phản và đại nghịch chống vua và xã tắc, mưu giết ông bà, cha mẹ, gian dâm và âm mưu giết chồng, giết một nhà ba người, chặt chân tay, phanh thân thể người còn sống, đầy tớ đánh chủ nhà đến chết, vợ cố ý đánh chết chồng.

Dựa theo những bức tranh vẽ và sách xưa viết lại, thường phạm nhân sẽ bị trói vào cột, đao phủ nghe hiệu lệnh bằng tiếng trống và chặt hết tay chân, rồi dùng dao sắc xẻo từng miếng thịt cho đến chết. Tùy theo từng nơi, từng luật mà quy định mà phải sau đúng bao nhiêu nhát xẻo thì nạn nhân mới được chết...

Trước đó, mùa đông năm Nhâm Tuất, sau khi bắt sống vua Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, xa giá của Hoàng đế Gia Long từ Thăng Long trở về Phú Xuân và đã “tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn… Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục. Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị, rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt; chưa kể 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì.

Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi, đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối.

Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, Vua Gia Long sau khi có những hành động tận pháp trừng trị lên hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và thân xác của Nguyễn Quang Toản…, đã  chừa lại ba đầu lâu bỏ vào 3 cái vò, đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam vĩnh viễn trong Nhà Đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) vào tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802).

Đến năm 1822, Vua Minh Mạng ra lệnh đưa 3 cái vò vào giam ở Khám đường. Đêm 22 rạng 23 tháng Năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, Vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành… Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ của Vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu Ngói, Thanh Toàn…

Lại nói về quê hương của tổ tiên Hoàng đế Quang Trung, theo sử liệu, quê hương đầu tiên là ấp Tây Sơn (nay thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai), khi đó với đoàn chiến tù bị bắt từ xứ Nghệ, Chúa Nguyễn cho phát tán đi nhiều nơi, một số trong họ có tổ tiên Nguyễn Huệ bị đưa lên khai phá vùng cao nguyên này từ thế kỷ XVII. Tuy nhiên, đến đời cụ thân sinh ra Nguyễn Huệ là Hồ Phi Phúc, có vợ là Nguyễn Thị Đồng, đã chuyển về cư ngụ tại quê vợ ở thôn Phú Lạc - nằm dưới chân núi Ngang, nơi có hai hố huyệt, chỗ an táng của hai cụ, từng bị Hoàng đế Gia Long cho quật phá vào thế kỷ XIX nhưng không thành công.

Các giai thoại ở địa phương đều công nhận rằng, mộ song thân các anh em Tây Sơn chôn ở núi Ngang (Hoành Sơn, Bình Định). Vì có mộ ông Hồ Phi Phúc nên Hoành Sơn được tôn xưng là núi Thiếu Tổ. Song, vẫn không biết đích xác chôn ở vị trí nào? Đứng ở phía Đông Hoành Sơn nhìn lên, ở khoảng giữa có một trảng đất trống như một chiếc ghế bành mà thân núi là lưng tựa. Ở trảng đất này có hai nấm mộ song song, bằng đá hình chữ nhật. Gia Long ngỡ rằng đó là phần mộ của ông bà Hồ Phi Phúc nên truyền quan địa phương khai quật. Thế nhưng, khi khai quật lên, không thấy hài cốt mà chỉ có bốn chiếc chum đựng dầu phụng đã vơi, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đang cháy.

Theo các bô lão, hai huyệt mộ giả có bốn ngọn đèn dầu phụng khổng lồ đang cháy là do Tây Sơn chôn, nhưng không ai giải thích rõ mục đích của việc làm đó. Và câu hỏi này từ đầu thế kỷ XIX đã đặt ra cho quan quân triều Nguyễn. Họ đã mất công đi tìm, đào bới, nhưng cuối cùng vẫn không thấy chính huyệt mộ táng nằm ở đâu?

Năm 1990, ở di tích Gò Lăng (Phú Lạc) phát hiện bia mộ có chữ “Ngự chế” lập năm Kỷ Hợi, nhiều người cho đó là khu lăng mộ của nhà Tây Sơn. Năm 1999, ở đây lại phát hiện một kiến trúc cổ, dấu vết còn lại là ba hàng cột đá, với nhiều mảnh ngói vỡ, chén, bát.

Cho đến nay, ở thôn Phú Lạc vẫn lưu lại một đền thờ nhỏ, do nhân dân dựng lên để thờ Tây Sơn tam kiệt. Trong công viên Tây Sơn, bên cạnh bảo tàng Quang Trung còn có hai cây me cổ thụ và giếng nước lâu đời.

Thái Thắng

Nguồn: Đất Việt

Sự trả thù của Nhà Nguyễn đối với Nhà Tây Sơn

Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh trở về Phú Xuân, đem vua tôi nhà Tây Sơn ra báo thù.

Tất cả các võ tướng đều bị tử hình, Trần Quang Diệu bị lột da, các tướng khác bị voi chà, người trảm quyết.

Từ vị đại tướng đến viên tùy tướng, thảy thảy đều giữ bản sắc anh hùng, không một nét sợ hãi, không một lời cầu nhiêu, hiên ngang, khẳng khái.

Riêng đối với Bùi Thị Xuân, Nguyễn Phúc Ánh dùng hình phạt khốc liệt nhất quán cổ kim!

Vốn nghe danh nữ kiệt, Nguyễn Phúc Ánh truyền đem đến xem mặt, Nguyễn Phúc Ánh tự đắc hỏi:

- Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?

Nữ kiệt ung dung đáp:

- Nói về tài ba thì Tiên Ðế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ đồ. Còn nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém rõ ràng như ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên Ðế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Ðức, tôi nhà ngươi. Còn nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người tức là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém cũng rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên Ðế ta đừng thừa long sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này!

Nguyễn Phúc Ánh hỏi gằn:

- Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh?

Nữ kiệt đáp:

- Nếu có thêm một nhi nữ như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không dễ gì mà lạnh. Cửa Nhật Lệ không để lạnh, thì nhà ngươi cũng khó mà đặt chân lên đất Bắc Hà.

Nguyễn Phúc Ánh hỏi có muốn xin ân xá không?

Nữ kiệt đáp:

- Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế?

Nguyễn Phúc Ánh căm gan, dằn từng tiếng.

- Không chịu nhục? Ta sẽ làm cho mi biết nhục.

Liền truyền lệnh: Ðem Bùi Thị Xuân về Bình Ðịnh, cởi bỏ hết quần áo, cột đứng trên tù xa đẩy đi khắp các nơi thị tứ.

Nhân dân Bình Ðịnh nghe tin, không ai bảo ai, mà mỗi lần xe nữ kiệt đi qua, thì nhà hai bên đường đều đóng kín cửa, người đi đường, người nhóm chợ, đều ngoảnh mặt bỏ tránh xa.

Xe đến vùng Ðập Ðá là nơi dệt lụa, thì những tấm lụa tinh khôi bay tung vào xe. Lớp bị bọn tướng sĩ hộ tống vung gươm chém đứt, theo gió bay lên không trung, lớp rơi vào xe phủ kín châu thân nữ kiệt.

Nữ kiệt lại bị giải về Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh hỏi:

- Ðã biết nhục chưa?

- Nhục nào có vương vào thân ta, mà chính đổ lên đầu nhà ngươi, con người tánh độc hơn sài lang, lòng nhớp hơn cẩu trệ.

Nguyễn Phúc Ánh tức giận, truyền bắt mấy người con của nữ kiệt đem ra giết trước mặt nữ kiệt: Mấy người con nhỏ thì sai lực sĩ bỏ vào bao vải, đánh nát thây. Còn người con gái lớn thì cho voi xé xác. Thấy voi đến, người con gái hoảng sợ kêu lên:

- Mẹ ơi! Cứu con với!

Nữ kiệt hét lớn:

- Con nhà tướng không được khiếp nhược.

Người con gái liền nhắm mắt thọ hình, không một tiếng rên rỉ. Ðến lượt nữ kiệt.

Chúng trói nữ kiệt để nằm ngửa trên cỏ. Ba hồi trống dứt, một con voi to lớn hung hăng chạy đến, giơ chân toan chà. Nữ kiệt trợn mắt hét một tiếng như sấm nổ. Con voi thất kinh thối lui. Bị nài giục, voi bước tới một lần nữa, nhưng vừa bước tới liền dừng bước ngay, thúc mấy cũng không dám tiến. Lính lấy giáo đâm, voi thét lên một tiếng rồi bỏ chạy.

Nguyễn Phúc Ánh tức mình, sai dùng hình phạt điểm thiên đăng.

Chúng lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp mình nữ kiệt, rồi đem cột nữ kiệt nơi trụ sắt dựng giữa trời. Ðoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt bình tĩnh, nét mặt không chút thay đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới lên trên, sáng chói thấu mây. Ai nấy đều xúc động.

Riêng Nguyễn Phúc Ánh tỏ vẻ hân hoan!

Lửa cháy hồi lâu. Bốn bề im phăng phắc. Bỗng một tiếng nổ.

Sọ nữ kiệt vỡ. Một lằn thanh quang bay vút lên tầng xanh!

Xử tướng võ xong, xử đến các quan văn.

Phần nhiều đều được tha về cho làm ăn.

Riêng Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích thì bị giải về Thăng Long và đánh đòn tại Văn Miếu.

Phan Huy Ích còn sống trở về nhà.

Ngô Thời Nhậm bị Ðặng Trần Thường đánh chết.

Ðặng Trần Thường là một danh sĩ Bắc Hà. Lúc Ngô Thời Nhậm được Vua Quang Trung trọng dụng, thì Ðặng Trần Thường đến xin Ngô tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô thét bảo Thường:

- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh giúp Vua cai trị nước. Còn muốn vào lòn ra cúi thì đi nơi khác.

Ðặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh.

Nay đắc thế liền trả thù xưa.

Ðó là đối với bề tôi nhà Tây Sơn. Còn đối với nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng, cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong hoàng cung để làm lọ đi tiểu.

Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã.

Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.

Các danh tướng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp, phần lớn đã qua đời, như:

- Nguyễn Văn Tuyết đã cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.

- Võ Văn Nhậm bị Nguyễn Huệ giết chết.

Ðặng Xuân Bảo hy sinh trong trận Nguyễn Phúc Ánh đánh lấy Thanh Hóa.

- Ngô Văn Sở bị dìm xuống sông vì nạn Bùi Ðắc Tuyên.

- Lê Văn Hưng bị Cảnh Thịnh nghe lời Bùi Ðắc Tuyên giết chết.

- Võ Ðình Tú bị trúng tên chết lúc Nguyễn Phúc Ánh đem đại binh đánh Quy Nhơn.

- Lê Văn Trung bị Cảnh Thịnh giết.

Còn sống ở ngoài tầm nanh vuốt của Gia Long chỉ được ít người: Võ Văn Dũng, Ðặng Văn Long, Ðặng Xuân Phong, Phan Văn Lân, Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Lộc.

Sau khi thoát nạn, Võ trở về Phú Phong, rồi lên An Khê, chiêu mộ được một số người Thượng, chuẩn bị việc phục thù. Lấy hòn Hợi Sơn ở Trinh Tường (Bình Khê) làm căn cứ quân sự. Do đó mà Hợi Sơn còn có tên là hòn Ông Dũng.

Nghe tin Ðặng Văn Long ẩn náu ở Vân Hội (Tuy Viễn) bèn tìm đến bàn đại sự.

Ðặng Văn Long, sau trận Ðống Ða thì đã có ý lui gót. Nhưng vì mấy kẻ bề tôi của Lê Chiêu Thống không nghĩ đến tội cõng rắn của mình, cứ nổi lên chống lại nhà Tây Sơn, nên Ðặng phải nán lại để đánh dẹp. Ðến khi thấy Cảnh Thịnh để cho quần thần lộng hành, mối nước sanh rối, Ðặng bèn từ chức, trở về An Nhơn mở trường dạy võ. Nhưng rồi thấy kẻ học võ lúc này không có chí lớn, ai nấy cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng, Ðặng liền đóng cửa trường, lên núi làm rẫy.

Võ Văn Dũng đến, Ðặng mừng được gặp lại cố tri. Nhưng khi nghe Võ bàn đến chuyện phục hưng thì lắc đầu, đáp:

- Tôi ra giúp nhà Tây Sơn đâu phải vì nhà Tây Sơn mà chính vì Tổ quốc. Nếu giặc Thanh không mang quân sang xâm lấn nước ta, thì tôi mãi làm con hạc nội, máu đâu dính đến tay. Còn về nhà Tây Sơn, chính Cảnh Thịnh đã làm mất. Song nếu Vũ Hoàng không bỏ đích lập thứ thì đâu đến nỗi nước này?! Nay đất đã mất mà lòng người cũng mất, hỏi còn mong làm được việc gì nữa? Mà dù có làm được nữa thì làm để làm gì, nếu không phải để tranh chiếm ngôi báu? Tranh cho ai? Cho nhà Tây Sơn hay cho chính mình? Thôi, trên ba mươi năm trời đánh nhau, nhân dân đã điêu đứng rồi, không nên gieo rắc thêm tang tóc.

Võ ra về, Ðặng lên ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không ai biết Ðặng ở ngọn núi nào trong dãy Nam Sơn.

Ý kiến của Ðặng Văn Long không lay chuyển ý chí của Võ Văn Dũng nổi.

Về Bình Khê, Võ Văn Dũng tiếp tục xây dựng lực lượng chiến đấu. Toàn vùng An Khê và những vùng ở hai bên bờ sông Côn, như Tiên Thuận, Vĩnh Thạnh, Ðồng Phó, Hà Nhung, Trinh Tường, Phú Lạc, Phú Phong, Kiên Mỹ... đều nằm trong phạm vi hoạt động của Võ công. Nhưng được ít lâu, người Thượng Xà Ðàng bị nhà Nguyễn mua chuộc, rục rịch làm phản. Công phải bỏ hết cơ sở, đem ba chú cháu Văn Ðức, Văn Lương, Văn Ðẩu lên ẩn náu tận trên Núi Xanh.

Ca dao địa phương có câu:

Củ lang đồng Phó, đỗ phộng Hà Nhung/ Chàng bòn thiếp mót để chung một gùi/ Chẳng qua duyên nợ sụt sùi/ Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi... Chim kêu dưới suối Từ Bi/ Nghĩa nhân còn bỏ huống chi cái gùi/

Ðó là mượn thể tỷ để nói về việc bất hòa giữa Võ công và người Thượng.

Võ công lên Núi Xanh ở cùng ba chú cháu Văn Ðức cho đến khi ba chú cháu bị sa vào lưới Vua Minh Mạng. Còn trơ trọi một mình, công vẫn sống một cách tự tại ngót mười năm nữa. Công mất dưới triều Thiệu Trị, không rõ năm nào, sống trên chín mươi tuổi. Mãi đến khoảng Ðồng Khánh, Thành Thái (1885-1907), con cháu mới lấy cốt đem về chôn ở Phú Phong.

Cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có bài Vịnh Võ Ðô Ðốc:

Tạo vật khốn hào kiệt Y tương sử hữu vi Công danh vị túc ngôn Hoặc tác xuất thể ty (tư) Võ công dũng quán quân Bách chiến khởi Tây thùy Thiên phương yểu trung nguyên Ðãi phi nhất mộc chi Thoát thân tứ thập niên Thế nhân thức công thùy Ðản kinh sơn thạch gian Hữu thử hùng báo ty (tư) Ngã diệc chí phương ngoại Bạch đầu vị phùng sư Niên niên hạnh thế phóng Thảng toại dữ thế từ Tùng công du Ngũ Nhạc Khể thủ thôn linh chi Kim cốt hoán lục tủy Khiêm nhiên tùng sao phi. Nghĩa là:

Tạo hóa làm khốn đốn kẻ hào kiệt Ý muốn cho họ làm một việc gì.

Công danh không đủ nói, Hoặc giả bày ra cơ hội để họ thoát đời.

 Cái dũng của Võ công thật quán quân, Từ biên giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng Nhưng trời muốn dứt nửa chừng Thì một cây không chống nổi.

Thoát mình khỏi nạn ngót bốn mươi năm Người đời ai biết ông?

Sống lâu ngày trong nơi núi vây đá chất Ông có tư thế mạnh như gấu như hùm Tôi cũng có ý muốn xuất thế, Nhưng đã bạc đầu mà chưa gặp được thầy.

Làm quan may được đuổi về Năm năm rảnh rang Muốn thoát khỏi cuộc đời Theo ông đi dạo chơi khắp năm ngọn núi Tiên Cúi đầu ăn cỏ linh chi, Xương vàng đổi tủy xanh Nhẹ nhàng bay theo sóng tùng.

Ngoài Võ Văn Dũng, còn một số lương tướng nữa thoát luật ác nghiệt của Gia Long, như:

    + Ðặng Xuân Phong năm Cảnh Thịnh thứ ba, được thăng chức Thái Phó, ban tước Huyện Công Tuy Viễn. Ðến khi Nguyễn Bảo bị giết, bà họ Trần đem con cháu lên An Khê lánh nạn, thì Ðặng công từ quan lui về Dõng Hòa dưỡng lão. Ðược năm năm, nghe tin Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Thành, Công mở tiệc mời thân bằng cố hữu đến, nói:

- Kẻ hào kiệt ra phò nhà Tây Sơn, phần nhiều đều là bậc trung nghĩa. Nhưng hầu hết đều dày công dày sức trong lúc xây dựng, mà không một ai đủ khả năng chống đỡ trong lúc ngả nghiêng! Nay mai mà Nguyễn Phúc Ánh thu trọn cả Bắc Nam, thì đất bằng nổi sóng, đám cựu thần nhà Tây Sơn, không còn chỗ đặt tay chân. Nếu đợi nước đến trôn, thì không còn nhảy kịp nữa.

Mấy hôm sau, có người đến thăm, thì thấy nhà không vườn trống. Ðặng công đưa gia quyến đi lúc nào và đi về đâu, không một ai hay biết.

    + Phan Văn Lân, lo việc biên phòng, nghe tin Cảnh Thịnh đoạt sự nghiệp của Thái Ðức, than dài một tiếng:

- Luân thường đã đứt, sự nghiệp không thể nào vững được lâu! Rồi giao công việc trong quân cho vị phó tướng, về An Thái thăm thầy. Thầy đã mất rồi, phò mã Trương Văn Ða cũng đã mất. Nơi xưa không còn ai là người cũ. Công bèn hỏi thăm phần mộ, ra thắp hương lạy thầy, ra đi... Như đám mây trôi trên ngàn thẳm.

+ Phạm Công Chánh trấn thủ Quảng Nam, Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa, nghe tin Bắc Thành thất thủ, liền mở kho phân phát hết quân lương quân trang cho binh sĩ, cho mọi người về quê quán làm ăn, còn mình thì một thương một ngựa ra đi. Phạm Công Chánh về ẩn núi Phương Phi tại Phù Cát, sau ra Cao Bằng. Lê Sĩ Hoàng về Quảng Nam, lên ẩn nơi Ngũ Hành Sơn.

+ Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc ở Quy Nhơn, cũng như Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, sau khi được tin Vua Cảnh Thịnh bị bắt, thì giải tán quân đội. Ông Lộc về Kỳ Sơn, dùng Hầm Rùa làm nơi trú ẩn. Ông Huy lên Dương An nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê hương, và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc.

Trừ Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy cũng như Nguyễn Văn Lộc và hầu hết các tướng còn sống sót, không một ai nuôi chí phục thù.

Một hôm ông Lộc hỏi ông Huy:

- Cựu thần nhà Tây Sơn, văn cũng như võ, còn khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại để lo việc phục hưng? Như thế chẳng ra là không tận trung với cựu chúa hay sao?

Ông Huy đáp:

- Những anh hùng nghĩa sĩ, ra giúp nhà Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều lo tròn bổn phận cho đến giờ chót, như thế là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đã không còn nữa thì chúng ta còn trung với ai? Bầy tôi của Vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ lòng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác, đã chẳng lợi gì cho nhà Lê mà còn làm khổ dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến nước trước. Không có thể làm lợi cho dân cho nước thì nằm yên chớ không nên gây thêm rối. Trung với một người, một nhà mà làm hại cho dân cho nước, thì trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung ấy không phải là trung.

Nguyễn Phúc Ánh dò biết tung tích của một số cựu tướng nhà Tây Sơn, tìm đủ cách để tận diệt. Nhưng núi non đã hiểm trở lại thêm người địa phương che chở, nên mọi người đều sống yên. Không bắt giết được, Nguyễn Phúc Ánh bèn dụ hàng, nhưng không người nào đáp ứng.

Báo quốc nhất thân đô thị đảm Giao tình thiên tải chỉ luân tâm[100] Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.

Quan quân nhà Nguyễn chú ý nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn.

Trước hết là mộ ông Nguyễn Phi Phúc.

Truyền rằng mộ nằm trên dãy Hoành Sơn, thôn Trinh Tường.

Tìm khắp nơi, thì thấy sát chân núi phía đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum lum, trong khoảng này dáng núi hơi cong cong. Ðứng phía trước trông vào thì phảng phất giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay tựa vào núi, còn mặt ghế là trảng đất. Trên trảng đất, nằm song song hai tảng đá xanh to lớn, hình chữ nhật. Người ta bảo đó là mộ của vợ chồng Nguyễn Phi Phúc. Bọn đào mồ mừng rỡ, ra sức cạy hai tảng đá lên. Hài cốt không thấy đâu mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong đương cháy[101].

Ai cũng biết bốn chum dầu đó là của nhà Tây Sơn chôn, song mục đích để làm gì, thật không ai biết. Biết rằng không phải mộ ông Phúc, quân nhà Nguyễn tìm khắp nơi, song không thấy dấu tích.

Những mả vôi to lớn ở trong vùng Bình Khê đều bị quật.

Có ba khóm lớn nhất, một ở bờ sông Côn phía Trinh Tường, một ở thôn Phú Lạc, một ở thôn Kiên Mỹ, trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!

Những ngôi mộ này là mộ của các vị đại thần phò Vua Thái Ðức.

Ở thôn Trường Ðịnh cũng có ba ngôi mộ rộng lớn và rất kiên cố của đại thần nhà Tây Sơn. Nhưng khi nghe tin Quy Nhơn bị Phúc Ánh chiếm thì gia đình người khuất liền đục bỏ bia cũ, thay vào tấm bia mới mang tên đàn bà. Nhờ vậy mà khỏi bị quật[102].

Nhà Tây Sơn dẫy cỏ không sạch nên nhà Nguyễn mọc trở lại. Ðể nhà Tây Sơn khỏi mọc lại, Nguyễn Phúc Ánh cho dẫy tận gốc. Nhưng than ôi, đến cả gốc cỏ đã khô gần mục mà cũng bị dẫy! Quả là độc thủ!

Ðể tránh nạn tru di, con cháu những người có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn náu ngoài xứ lạ nơi xa.

Chính sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia Long làm lụy chẳng những người mà còn đến cả vật, nhất là vùng Tây Sơn.

Sách vở, giấy tờ đều bị tiêu hủy. Ðiển hình là những tập gia phả của họ Võ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Hòa, họ Ðặng ở Dõng Hòa, họ Trần ở Trường Ðịnh... Cho đến những bộ sử, những tập thơ văn... sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông Sử Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư (1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Võ Xuân Hoài tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh... Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xã ở Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...

Những môn võ thời Tây Sơn thường dùng, một số bị cấm. Thời Tây Sơn võ nghệ rất thịnh. Có bốn môn nổi tiếng là Côn, Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc binh thì quyền thay thế bằng kỳ.

Côn, quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ Bình Ðịnh mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.

Kỳ là cờ - lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ phía kết vào cán cờ, ba phía kia đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ huy vừa dùng để giết giặc.

Phải là người có sức mạnh và có võ giỏi, mới sử dụng được.

Cổ là trống. Trống lớn như trống chầu. Khi tập luyện thì đứng trên hai khối gỗ tròn lớn gấp đôi quả bưởi. Ðôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách lanh lẹ. Còn cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống, theo từng bài luyện võ. Khi thì dùng hai trống, khi thì dùng bốn, khi thì dùng tám, khi thì dùng mười ai, tùy trình độ và sức vóc của võ sĩ. Trống treo ở trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu người. Mỗi người hai trống. Không phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi chỗ lẫn nhau.

Khi ra trận thì dùng hai trống, đặt trên xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống không phải chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn dùng làm khí giới giết địch.

Gia Long cấm kỳ, kiếm, cổ.

    Kỳ không bị cấm cũng không ai dùng nổi và cũng không ai học làm gì trong lúc không chiến tranh.

    Kiếm chẳng những cấm dạy cấm học, mà trong nhà có kiếm cũng bị tội.

    Cấm kiếm lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.

    Cho nên nghề kiếm và đao ở Bình Ðịnh bị mất hẳn.

    Còn cổ thì cũng thất truyền. Và môn võ biến thành môn nhạc. Võ thì đánh trống chầu và đánh trống treo. Nhạc thì đánh trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện võ vẫn được đem dùng vào việc đánh nhạc.

    Nói tóm lại là tất cả những tinh hoa của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long tìm đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không còn gì làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.

    Tên vùng đất phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra An Tây.

    Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ!

    Nhưng chỉ bên ngoài thôi.

    Lòng người Việt Nam yêu nước, nhất là người Bình Ðịnh, đâu có quên nhà Tây Sơn.

­­­­­______

[100] Thơ của Nguyễn Bá Thuận đề sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì. Thơ 8 câu, đây là cặp luận. Câu thơ đại ý nói: Ðền ơn nước, một tấm thân đầy cả mật (can đảm đầy mình). Nghìn năm giao tình với nhau, chỉ lấy tấm lòng mà luận thị phi.

    [101] Chắc có lỗ thông hơi trong đá nên đèn không tắt. Khoảng 1929-1930, Tản Ðà tiên sinh có đến viếng mộ. Lúc ấy hai tảng đá vẫn còn. Cuộc viếng mộ có đăng trên báo. Nay không còn thấy.

    [102] Những vôi đá của ba ngôi mộ bị quật vẫn còn sót ít nhiều. Ba ngôi mộ không bị phá vẫn còn, nhưng nắng mưa làm hư nhiều lắm. Một ngôi ở trong vườn họ Từ, một ngôi nằm ở trước ngõ họ Phan, một ngôi nằm ở nơi gò Vườn Xoài, cạnh con đường liên hương từ Kiên Mỹ đi xuống. Không ai dám nhận những ngôi mộ này là của gia đình, vì hình phạt của nhà Nguyễn rất tàn khốc.

MỘT NGÀY LỄ VU LAN SẦU THẢM

Tịnh Thủy

Với sự trợ giúp tích cực của người Pháp thông qua giám mục Pigneau de Béhaine tức Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh từ Xiêm La trở về nước chiếm lại Gia Định rồi tiến chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên, Quy Nhơn và Phú Xuân. Đến mùa Xuân năm 1802 Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long. Và sau đó trở về Phú Xuân, lập kinh đô mới đặt niên hiệu là Gia Long năm thứ nhất, sai sứ sang nhà Thanh xin phong vương. Việc triều chính đầu tiên cuả vua Gia Long là trả thù nhà Tây Sơn. Dưới đây là câu chuyện báo thù của vua Gia Long được phỏng theo sử liệu thời Tây Sơn và tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère, người có dịp chứng kiến buổi hành hình trong cuốn ký sự "Relation sur le Tonkin et la Cochinchine" xuất bản năm 1807, mô tả lại cuộc hành hình đẫm máu tại Phú Xuân vào mùa Thu năm 1802.

Vào ngày trăng tròn tháng Bảy năm Nhâm Tuất 1802 tại kinh thành Phú Xuân, mới tờ mờ sáng, sương hãy còn bay lãng đãng trên mặt nước sông Hương thì tiếng súng thần công nổ vang trời báo hiệu cho toàn dân kinh thành biết hôm nay vua mở hội hành hình nhà Tây Sơn: xử tội tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, mẹ Trần Quang Diệu và Trần Bích Xuân, con gái của đôi tướng tài. Dân chúng từ Quy Nhơn Bình Định đến Phú Xuân ai nấy đều biết rõ đôi danh tướng Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân đã bao lần xông pha chiến trường, chiến đấu dũng cảm, vào sinh ra tử từ Nam ra Bắc giúp vua Quang Trung thống nhất sơn hà.

Dọc đường bên dòng sông Hương dẫn đến pháp trường An Hoà, ngoại ô kinh thành Phú Xuân, nhà vua cho bố trí binh lính dày đặc, chung quanh pháp trường dân chúng tập trung đông đảo để được nhìn lần cuối hai vị tướng quả cảm anh hùng đã trở thành niềm kiêu hãnh của toàn dân.

Trời đã sáng, mặt trời lên cao nhưng bị che khuất bởi những vầng mây đen trở nên u ám thê lương. Một bầu không khí nghiêm trang hồi hộp của hàng ngàn người đang chờ đợi chung quanh pháp trường để chứng kiến một cảnh tượng ghê gớm chưa từng xảy ra trước đây trong lịch sử nước nhà.

Từ xa tiếng vó ngựa dồn dập cùng những hồi chiêng trống báo hiệu vua Gia Long và đoàn tuỳ tùng đến! Vua cùng đoàn tuỳ tùng ngồi trên các xe song mã dừng trước khán đài. Ngoài vua, người ta còn thấy các quan ngự sử, thượng thư cùng các phu nhân. Trong số những người nước ngoài đến tham dự có sự hiện diện của giám mục Eyot, giáo sĩ Le Labouse, giáo sĩ De La Bissachère, hai ông Dayot và Vannier thuyền trưởng hai chiến thuyền Pháp và hai viên sĩ quan bộ binh mang quân hàm Đại Tá quân đội viễn chinh Pháp phò tá quân lực của Nguyễn Ánh.

Sau đó đội hành quyết dẫn bốn người ra trình diện vua mà họ gọi là bốn tên tử tội: mẹ Trần Quang Diệu, tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân và cô con gái 15 tuổi Trần Bích Xuân. Mẹ Trần Quang Diệu, tuy già nhưng nét mặt vẫn quắc thước, còn nữ tướng Bùi Thị Xuân, tuy mặc quần áo vải thô bó sát thân người, chân bị còng dây xích bước từng bước ngắn rất khó nhọc nhưng vẫn toát ra một vẻ hiên ngang oai dũng.

Trước giờ hành quyết vua Gia Long hạ lệnh:

- Trần Quang Diệu. Ngươi có điều gì muốn nói trước khi chết không?

Trần Quang Diệu đứng thẳng, nghiêm trang nói:

- Mẹ ta nay tuổi già sức yếu, một đời người chẳng hại ai, nay đã ngoài tám mươi. Xin ngươi hãy tha chết cho mẹ ta.

Vua Gia Long đưa mắt nhìn mẹ Trần Quang Diệu rồi cười nói:

- Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy, ngày xá tội vong nhân, Ta mở lượng khoan hồng tha cho mẹ ngươi được sống nhưng nhà ngươi phải chết không toàn thây. Quân đâu, mang tên Trần Quang Diệu ra xử lăng trì. [3]

Mẹ Trần Quang Diệu nghe vậy đứng thẳng người giơ tay chỉ thẳng vào mặt vua Gia Long mắng:

- Thằng tiểu nhân! Giết gì thì cứ giết việc gì phải phanh thây xẻ thịt. Ta quyết không vì sự sống của thân già này mà để cho các con ta chịu nhục.

Nói xong tự mình dập đầu vào bậc tam cấp tự tử mà chết.

Bùi Thị Xuân đau đớn than rằng:

- Mẹ ơi! Sao mẹ lại huỷ hoại thân mình như thế làm chúng con đau lòng!

Ba hồi trống dục nổi lên, ngoài sân đội hành quyết bắt đầu hành hình tướng Trần Quang Diệu. Một tên chém đầu ông lìa khỏi cổ, tên thứ hai chém ngang hông đứt làm hai đoạn rồi chúng tiếp tục lóc da xẻ thịt!

Bùi Thị Xuân tức giận chỉ vào mặt vua Gia Long hét lớn:

- Nguyễn Ánh! Ngươi là kẻ tiểu nhân hèn hạ, đã làm điều dã man tàn bạo, đào mộ Tiên đế ta (tức vua Quang Trung), dù ngươi là kẻ chiến thắng nhưng mai này ai dám bảo ngươi là kẻ anh hùng?

Vua Gia Long cười mỉa hỏi:

- Ngươi thử cho ta biết, ta và Nguyễn Huệ, ai hơn ai?

- Luận về tài, ngươi làm sao so sánh được, một bên là mãnh hổ một bên là cẩu hèn. Tiên đế ta trăm trận trăm thắng từ Nam ra Bắc, đại phá quân Thanh lấy lại cơ đồ chỉ trong năm ngày. Còn ngươi cầu cứu quân ngoại bang cả vạn binh, chỉ một đêm bị quân ta đánh tan rã.

Vua Gia Long giận run người nhưng vẫn làm ra vẻ bình tĩnh hỏi:

- Còn nói về đức thì thế nào?

Bùi Thị Xuân đáp:

- Về đức, ngươi cũng không đáng để so sánh. Tiên đế ta lấy nhân nghĩa đối xử với các tôi nhà ngươi. Còn ngươi dùng tâm của kẻ tiểu nhân hèn hạ đối xử với các nghĩa sĩ. Tiên đế ta đánh đổ hai nhà Trịnh, Nguyễn là đem an lạc và đời sống ấm no cho sơn hà xã tắc. Còn ngươi rước quân ngoại bang về tàn sát lương dân, bắt được các sĩ tướng của Tiên đế ta thì xử tru di tam tộc. Tiên đế ta chết đã mười năm, ngươi còn đào mả lấy xương cốt làm tội.

Bùi Thị Xuân vừa dứt lời, các tướng hầu cạnh vua đều rút gươm khỏi vỏ. Vua Gia Long ngăn lại bảo:

- Đừng giết ngay, ta muốn xem gan nó lớn cỡ nào. Quân đâu! Đem con gái Bùi Thị Xuân ra cho voi giày trước mặt nó.

Bỗng một người con gái tuổi thanh xuân từ cánh trái khán đài tiến đến cạnh vua nói lớn:

- Xin Hoàng huynh hãy tha tội chết cho con gái Bùi Thị Xuân, nó còn trẻ dại đâu có tội tình gì?

Mọi người giật mình quay qua nhìn, thì ra là Quận Chúa Ngọc Du. Vua Gia Long lấy làm ngạc nhiên hỏi Ngọc Du:

- Trong trận đánh thành Bình Định, Trần Quang Diệu đã giết chết Võ Tánh chồng của em, sao em còn xin tha cho con gái của nó?

Ngọc Du trả lời:

- Thưa Hoàng Huynh. Ngày trước trong trận đánh thành Qui Nhơn, chồng em không giữ nổi thành nên đã tự vẫn và Bùi Thị Xuân đã tha mạng cho mẹ con em nên em mới còn sống đến ngày nay. Xin Hoàng huynh nghĩ tình ấy mà tha tội cho con gái Bà.

Vua Gia Long lắc đầu, đoạn quay sang bọn quân sĩ quát lớn:

- Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Quân đâu, hãy mang con gái Bùi Thị Xuân ra hành hình!

Thế là một hồi trống dục lại nổi lên. Đội hành quyết áp tải người con gái tên Trần Bích Xuân ra sân lột hết y phục một cách dã man tàn bạo. Một võ sĩ khác dẫn một con voi to lớn bước chậm rãi đến gần nàng. Khuôn mặt nàng biến sắc, Bích Xuân hoảng sợ nhìn về phía mẹ kêu thất thanh:

- Mẹ ơi cứu con với!

Bùi thị Xuân nghiêm nét mặt hét lớn:

-          Con nhà tướng phải chết anh dũng! Hãy hiên ngang chết cùng cha mẹ còn hơn là sống với đám tiểu nhân bán nước!

Bùi thị Xuân vừa dứt lời, voi đã dùng vòi quấn lấy con gái Bà tung lên không trung. Khi nàng rơi xuống cùng với tiếng hét hãi hùng, voi đưa cặp ngà ra hứng, ngà voi nhọn xuyên qua người, Bích Xuân quằn quại trên miệng voi mà chết. Voi quăng xác nàng xuống đất rồi dùng chân phải giày đạp lên. Xót thương thay người con gái trẻ chết nát tan thân thể. Mọi người mục kích đều rùng mình rơi nước mắt!

Nữ tướng Bùi Thị Xuân lặng người đớn đau. Bà kéo lê đôi chân đã bị xiềng đến gần con voi vừa giày đạp con gái mình. Khí sắc của bà vẫn hồng hào, hiên ngang như khi lâm trận. Tên điều khiển voi thúc voi quấn lấy bà. Voi vừa vươn vòi, bà trợn mắt hét lên một tiếng như sấm nổ, voi thất kinh co vòi thụt lui. Tên nài voi lại thúc voi, voi bước tới thấy bà lại thối lui. Tên nài không biết tính sao, lấy gậy đập vào đầu voi, voi thét lên một tiếng hất tên nài xuống đất rồi cắm đầu chạy ra khỏi pháp trường. Đội quân hành quyết lại đưa voi khác vào thay, nhưng con nào cũng thế, khi đến gần nghe nữ tướng hét lên đều co vòi quay đầu bỏ chạy. Thì ra chúng đã bị khuất phục khi nhận ra Bà đã cùng chúng bao phen vào sinh ra tử.

Ba hồi trống dục dứt tiếng. Cả pháp trường im phăng phắc đến nghẹt thở. Nguyễn Ánh muốn báo thù nên cho voi dẫm nát thân thể Bà, nhưng đã thất bại, tức giận quát lớn:

-          Nếu voi không giết nổi người đàn bà này thì cho ngũ mã phanh thây [2]. Nhất định phải cho nó chết không toàn thây!

Ba hồi trống dục lại vang lên. Năm tên nài ngựa trong đội hành quyết dẫn năm con ngựa khỏe ra pháp trường, chúng dùng dây buộc mỗi con vào đầu, vào tay, vào chân nữ tướng xếp thành hình ngôi sao. Nữ tướng vẫn bình tĩnh, nét mặt không thay đổi và không tỏ chút sợ hãi nào. Tiếng trống tiềp tục dồn dập trong bầu không khí thê lương. Tên đội trưởng ra dấu hiệu cho năm tên nài cùng quất roi cho ngựa chạy về năm hướng làm thân xác Bà bị xé nhiều mảnh, máu me lai láng trông rất kinh hãi. Ai nấy đều xúc động, mặt đầm đìa nước mắt.

Thương thay cho nữ tướng tài ba, dũng cảm! một đời hy sinh cho sơn hà xã tắc, đã phải chết không toàn thây. Riêng Gia Long Nguyễn Ánh tỏ vẻ hân hoan sau khi đã tận diệt toàn gia đình tướng Trần Quang Diệu. Nguyễn Ánh đâu có biết cái chết hiên ngang của Bà đã trở thành một hình ảnh vô cùng oai hùng ở pháp trường, nó đã in sâu vào tâm khảm người dân từ Bình Định đến Phú Xuân. Họ vô cùng cảm kích trước trước sự anh dũng của nữ tướng khi chứng kiến những giây phút cuối cùng đầy khí phách, kiên cường của Bà và hình ảnh bất diệt này vẫn còn vang vọng đến ngày nay.

Xa xa có tiếng chuông chùa ngân vang vọng lại. Hôm nay các chùa đang thiết lễ Vu Lan, ngày báo hiếu cùng là ngày xá tội vong nhân. Chư Tăng Ni đang cầu nguyện cho các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn chiến tranh được vãng sinh về miền lạc cảnh, cho chúng sinh khắp mọi miền sớm được giải thoát khỏi cảnh khổ ải trầm luân, người người sống an vui hạnh phúc, không hận thù chia rẽ.

Tịnh Thuỷ

Mùa Vu Lan 2010

________

[1] Bùi Thị Xuân, người ở thôn Xuân Hòa, phía Nam sông Côn, thuộc tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Có thể nói, trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ Đô đốc Bùi Thị Xuân, một nữ tướng văn võ toàn tài, vợ danh tướng Trần Quang Diệu. Bà là vị anh thư đã cùng chồng hết lòng hết sức giúp nghĩa quân Tây Sơn lập nên triều đại Tây Sơn. Năm 1778, Bùi Thị Xuân được Nhà Tây Sơn phong làm Đô đốc. Bà cùng chồng phò tá Nguyễn Huệ tiến ra Bắc đánh đổ Lê - Trịnh, đặt cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống nhất đất nước sau này. Đội tượng binh do bà huấn luyện đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử xuân Kỷ Dậu 1789.

[2] Có sách nói Bà bị xử hình điểm thiên đăng (dùng vải nhúng sáp nóng đem quấn chung quanh cơ thể, rồi cột vào trụ sắt xong châm lửa đốt)

[3] Tùng xẻo (còn gọi là lăng trì hay xử bá đao) (tiếng Hoa giản thể: , tiếng Hoa phồn thể: 凌遲, bính âm: língchí) là một trong những hình phạt tàn khốc và dã man được dùng rộng rãi ở Trung Quốc thời cổ xưa từ năm 900 cho đến khi chính thức bãi bỏ vào năm 1905. Từ ngữ trong tiếng Hán "lăng trì" có nghĩa lấn lên một cách chậm chạp. Đây cũng là hình thức ghê rợn vào bậc nhất trong các án tử hình, phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn vì không được chết nhanh chóng, có trường hợp xẻo tróc nửa phần thịt trên cơ thể mà phạm nhân vẫn còn giãy dụa gào thét. Mức độ tàn bạo của nó thì không có gì có thể sánh nổi; ngoài việc xẻo từng miếng thịt trên người tử tội, đao phủ còn có nhiệm vụ là giữ cho tử tội không được chết một cách nhanh chóng, tức là sau bao nhiêu nhát xẻo thì nạn nhân mới được chết.